Những tác phẩm Kinh, Luận, Sử của hòa thượng Thích Thanh Từ
KINH
1. Bát-nhã Tâm Kinh giảng giải (1998)
2. Kinh Bát Đại Nhân Giác giảng giải (1997)
3. Kinh Bát-nhã giảng giải (2000)
4. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa giảng giải (1993/2000)
5. Kinh Kim Cang giảng giải (1997)
6. Kinh Lăng-già Tâm Ấn (dịch 1993/1997)
7. Kinh Thập Thiện giảng giải (1993/1998)
8. Kinh Viên Giác giảng giải (2000)
LUẬN
1. Bích Nham Lục (dịch 1995/2002)
2. Kinh Pháp Bảo Đàn giảng giải (1993/1999)
3. Thiền Căn Bản (dịch 1993/1999)
– Pháp Yếu Tu Tập Tọa Thiền Chỉ Quán (dịch 1963)
– Tọa Thiền Tam-muội (dịch 1961)
– Lục Diệu Pháp Môn (dịch 1962)
4. Thiền Đốn Ngộ (dịch 1973/1999)
5. Thiền Tông Vĩnh Gia Tập (dịch 1974)
6. Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn (dịch 1971)
7. Truyền Gia Bảo Thiền Tông Trực Chỉ
9. Tham Thiền Yếu Chỉ (dịch 1962)
10. Thiền Sư Thần Hội giảng giải (2001/2002)
11. Hiển Tông Ký (dịch và giảng 1993)
12. Truyền Tâm Pháp Yếu giảng giải (2007)
THIỀN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
A. Sách viết
1. Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20 (1992/1998)
B. Sách dịch/Biên tập từ băng giảng
1. Hai Quãng Đời Của Sơ Tổ Trúc Lâm (1997/2002)
2. Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục giảng giải (1999)
3. Khóa Hư Lục giảng giải (1996)
4. Kiến Tánh Thành Phật giảng giải (2000)
5. Luận Giải Thi Tụng Mười Bức Tranh Chăn Trâu giảng giải (1999)
6. Tam Tổ Trúc Lâm giảng giải (1997)
7. Tiến Thẳng Vào Thiền Tông (2005)
8. Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục giảng giải (1996)
SỬ
1. Thiền Sư Việt Nam (1991/1995/1999)
A. Sách viết
1. Ba Vấn Đề Trọng Đại Trong Đời Tu Của Tôi (1997)
2. Cành Lá Vô Ưu (1994/1998)
3. Phật Giáo Với Dân Tộc (1998)
– Phật Giáo Trong Mạch Sống Dân Tộc (1966)
– Vài Nét Chính Luân Lý Phật Giáo (1967)
– Đạo Phật Với Tuổi Trẻ (1959/1987)
B. Sách biên tập
1. Hoa Vô Ưu: Tập 1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 6 – 7 – 8 – 9 – 10
2. Nguồn An Lạc (2001)
3. Phật Pháp Tại Thế Gian tập 1 – 2 – 3
5. Phụng Hoàng Sách Tấn tập 1 (2005)
6. Trọn Một Đời Tôi (2000)
7. Xuân Phụng Hoàng tập 1 (2004) – tâp 2 (2005)
10. Xuân Trong Cửa Thiền tập 4 (1996/1998)
Những bài viết ngắn của thầy Thanh Từ
- Ai thực tế hơn ai
- An Lạc Sau Khi Bứng Gốc Khổ Đau.
- Ba Điều căn Bản Của Người Tu Phật.
- Bài Kinh Bát-nhã. (Tất niên Đinh Mão-1988)
- Bài Kinh Tu Nhàn Đề
- Bài pháp đầu tiên của đức Phật
- Bản Chất Đạo Phật Bi Quan Hay Lạc Quan?
- Bản Ngã Là Gốc Của Đau Khổ Và Bất Công
- Bi Và Trí.
- Biệt Nghiệp Và Đồng Nghiệp.
- Biểu tượng hoa sen
- Bình Thường Tâm Thị Đạo
- Bỏ Tất Cả Là Được Tất Cả.
- Bồ Tát Sợ Nhân, Chúng Sanh Sợ Quả
- Bồi Dưỡng Cho Lớp Giảng Sư.
- Cái Gì Rồi Cũng Đến, Đến Rồi Qua, Qua Rồi Mất.
- Chân Lý Tương Đối.
- Chân Lý Tuyệt Đối.
- Chánh Báo Và Y Báo.
- Chánh Tín Và Mê Tín.
- Chấp Là Gốc Đấu Tranh Là Nguồn Đau Khổ.
- Chén Trà Khai Mạc. (Tất niên Bính Dần-1987)
- Chỉ Ông Chủ.
- Chỉ tâm yếu cho người tu thiền
- Chỉ tâm yếu cho người tu thiền (Bài dịch)
- Chỗ Đồng Khác Giữa Phật Học Và Khoa Học.
- Chỗ gặp gỡ và không gặp gỡ giữa Thiền Tông và Tịnh Độ Tông
- Cho người già bệnh
- Chữ “Tức” Trong Phật Giáo Đại Thừa.
- Chữ không trong bài kinh bát nhã
- Chúng ta đi chùa để cầu xin hay để tu học theo Phật.
- Có Pháp Môn Nào.
- Cội Nguồn Thiền Tông.
- Cội Gốc Sanh Tử và Niết Bàn
- Con đường mười nghiệp lành
- Con người bất tử
- Con Người Hạnh Phúc – Đức hỉ xả. (Xuân Mậu Ngọ-1978)
- Cốt lõi Đạo Phật
- Cúng Dường Tam Bảo.
- Cuộc Đời Là Mâu Thuẫn.
- Cuộc Đời Tương Đối Mà.
- Cương Yếu Để Tu.
- Đãi Cát Tìm Vàng.
- Đạo Lý Vô Ngã.
- Đạo Phật
- Đạo Phật bi quan hay lạc quan?
- Đạo phật là bình đẳng tự do tuyệt đối.
- Đạo Phật là đạo diệt khổ
- Đạo Phật là đạo Bình đẳng – Tự do – Tuyệt đối
- Đạo Phật là Đạo Giác Ngộ.
- Đạo Phật Là Đạo Như Thật.
- Đạo phật là đạo yêu đời
- Đạo Phật Với Tuổi Trẻ.
- Đạo Phật Nói Thẳng Lẽ Thật.
- Đạo Phật Thực Tế Không Huyền Hoặc.
- Đâu là Chân Hạnh Phúc.
- Đêm Trừ Tịch Năm Giáp Dần-1974.
- Đi Chùa Lễ Phật.
- Đời tu của tôi. (Tất niên Tân Mùi 1992)
- Đức Di Lặc – Qua Hình Ảnh Và Ý Nghĩacủa Ngài
- Đức Di-lặc Và Ý Nghĩa Sáu Đứa Bé. (Xuân Đinh Tỵ-1977)
- Đức Hỉ Xả.
- Đức Phật Là Bậc Thầy Các Nhà Khoa Học.
- Đức phật Là Bậc Vô Thượng Y Vượng.
- Đức Thanh Tịnh.
- Đức Tinh Tấn.
- Đức Từ Bi Và Nhẫn Nhục.
- Đức Tự Tín Của Người Phật Tử.
- Đức Phật là Vị Thầy Dẫn Đường …
- Đường Lối Tu Theo Đạo Phật.
- Đường Lối Tu Thiền Thiền Tông Việt Nam.
- Đường Lối Tu Thiền.
- Đường lối tu của thiền viện Trúc Lâm
- Gần Xa Niết Bàn
- Gặp nhau giữa Thiền Tông và Thiền của Giáo Lý Nguyên Thủy
- Giác Ngộ Pháp Gì Ứng Dụng Tu Ngũ Thừa Phật Giáo.
- Giải Thoát Là Cốt Lõi Của Đạo Phật.
- Gian Lao Không Làm Ta Nhục Trí.
- Giáo Lý Tối Thượng.
- Giới thiệu đường lối tu thiền của Phật giáo.
- Hạnh Nhẫn Nhục.
- Hạt Chuỗi Mộng Ngày Qua Mất, Nghiệp Thiện Ác Còn (Tất Niên Ất Mão-1975)
- Hoa hay là rác?
- Hòa Quang Đồng Trần. (Tất niên Đinh Mão-1988)
- Hoa Sen Trong Bùn.
- Hoài Bão Của Tôi.
- Hiễn Tông Ký
- Học mà không tu là đãy sách – Tu mà không học là tu mù
- Học Phật bằng cách nào?
- Hồi Đầu Thị Ngạn.
- Hồi Quang Phản Chiếu – Phản Quan Tự Kỷ.
- Hòn Ngọc Họ Hòa. (Tất niên 1979)
- Hòn ngọc quí trong núi lửa. (Tết Nhâm Thân 1992, Tăng Ni)
- Khóa lễ Bát Nhã
- Khéo chọn con đường tốt.
- Khổ vui qua con mắt kẻ mê người tỉnh. (Xuân Canh Ngọ 1990, Buổi nói chuyện với Phật tử)
- Khổ Vui Qua Mắt Kẻ Mê Người Tỉnh.
- Khuyên Gắng Tu Hành.
- Làm Sao Bỏ Được Tham-Sân-Si.
- Làm sao tu theo Phật
- Lợi Ích Của Tu Thiền.
- Lục Hòa.
- Lục tặc lục thông
- Lễ Giổ Tổ Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa Lần Thứ 28.
- Lòng Tin Của Người Con Phật.
- Luân Hồi.
- Mê Tín Chánh Tín.
- Mê Và Giác.
- Mình là cái gì?
- Mình Yêu Ai Nhất ?
- Một chữ xả
- Một Mùa Xuân Hạnh Phúc.
- Một Ngọn Núi Ba Con Đường.
- Một Vài Quan Niệm Của Phật Tử.
- Mùa Xuân Di-lặc. (Xuân Bính Thìn-1976)
- Mùa Xuân Miên Viễn. (Xuân Đinh Mão-1987)
- Mục Đích Của Tôi.
- Mục đích tu thiền.
- Mười Điều Tâm Niệm.
- Năm Kỷ Tỵ Nói Chuyện Rắn.
- Ngày Xuân qua các Thiền sư Việt Nam. (Xuân Canh Ngọ 1990, Tăng Ni)
- Nghi Thức Toạ Thiền
- Nghiệp Báo.
- Nghiệp Dẫn Luân Hồi Trong Lục Đạo.
- Nghiệp duyên.
- Nghiệp Thức Và Tánh Giác.
- Nghiệp Từ Đâu Mà Ra.
- Ngỗng chúa uống sữa chừa nước
- Ngũ Giới.
- Người Biết Tu Phật Thì Rất Nhẹ Nhàng, Thảnh Thơi.
- Người Khéo Tu Phật Sẽ Được Bình An Hạnh Phúc.
- Người Leo Núi.
- Người mê kẻ tỉnh, thương mình khác nhau chỗ nào?
- Người tu Phật là người tìm về nguồn an lạc giải thoát.
- Người Tu Phật Phải Là Kẻ Chán Đời Chăng?
- Nguồn gốc của đạo Phật.
- N guồn gốc tu hành của Phật
- Nguồn Gốc Mê Tín.
- Nguồn Gốc Phật Pháp. (Tất niên năm Ất Sửu-1986)
- Nguồn Gốc Yêu Đời Và Chán Đời.
- Nguồn Vui Lâu Dài.
- Nguyện Vọng Của Tôi.
- Nhân Sinh Quan Phật Giáo.
- Nhân Thừa Và Bồ Tát Thừa.
- Những Cái Vui Trong Đạo Phật (Xuân Canh Thân-1980)
- Những chướng nạn của đức Phật (Tất niên Canh Ngọ 1991)
- Những Điều Cần Biết Trong Sự Tu Hành.
- Những Niềm Vui Chân Thật. (Xuân Mậu Thìn-1988)
- Những trở ngại là chướng duyên hay thắng duyên
- Niềm Vui Đầu Xuân
- Nói Chuyện Về Thiền Tông Tại Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn Tp.Hồ Chí Minh.
- Nói chuyện với lớp giảng sư TP. Hồ Chí Minh.
- Nụ Cười Bất Diệt.
- Nước Có Dậy Sóng Không?
- Ông Phật Hay Ông Bụt.
- Ông Thiện Và Ông Ác.
- Phá Rừng Tre Gai.
- Phản Quang Tự Kỷ Bổn Phận Sự Bất Tùng Tha Đắc.
- Phăng Tìm Cội Gốc Của Đạo Phật.
- Pháp môn không hai. (Xuân Giáp Tý-1984)
- Pháp Phật Là Thuốc Trị Tâm Bệnh Của Chúng Sanh.
- Pháp tu căn bản của hệ Nam tông và Bắc tông
- Pháp Tu Căn Bản Của Phật Tử. (Phật Pháp Hóa Nhân Gian)
- Phần Phật sự.
- Phần Tu Tập.
- Phật Giáo Độ Sanh.
- Phật Giáo Hửu Ích Hay Vô Ích.
- Phật Giáo Thiền Tông Thực Tế Đến Không Ngờ.
- Phật Giáo Thiền Tông Việt Nam.
- Phật Pháp là thiết thực,…
- Phật hóa hữu duyên nhân.
- Phật Là Gì?
- Phật pháp thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy. (Xuân Bính Dần-1986)
- Phật Pháp Trị Tận Gốc Tâm Bệnh.
- Phật Tử Tại Gia Phổ Biến và Linh Động Phật Giáo.
- Phương Pháp Lập Nghiệp Vĩnh Cửu.
- Phương Pháp Toạ Thiền
- Phương Pháp Tu Của Thiền Viện Chân Không.
- Phương Pháp Tu Tịnh Độ Tông Và Thiền Tông.
- Ra Khỏi Hầm Lửa. (Tết Nguyên Đán năm Kỷ Tỵ-1989)
- Sách Tấn Tu.
- Sám Hối.
- Sáng Việc Lớn.
- Sanh Tử Sự Đại. (Đêm trừ tịch cuối năm Canh Thân-1980)
- Số Mạng Nghiệp Báo Đồng Hay Khác?
- Sơn Thất Cảm Hứng
- Suy nghĩ về thế kỷ mới của người tu Phật.
- Tài Sản Không Bao Giờ Mất.
- Tại Sao Chúng Ta Phải Ngồi Thiền.
- Tại sao Chúng Ta Phải Tu Thiền ?
- Tại Sao Người Phật Tử Phải Tụng Kinh, Niệm Phật, Trì Chú Và Tọa Thiền?
- Tại Sao Tôi Chủ Trương Khôi Phục Phật Giáo Đời Trần?
- Tại Sao Tôi Tu Theo Đạo Phật?
- Tại Sao Tôi Tu Thiền?
- Tâm Bình Thường Là Đạo.
- Tam Độc.
- Tâm Hạnh Người Tu. (Tất niên Giáp Tý-1985)
- Tam Huệ Học – Tam Vô Lậu Học.
- Tam Qui.
- Tánh Không và Chân Không.
- Tánh Không Và Chân Không.
- Tập Nghiệp.
- Tất Cả Pháp Không Cố Định.
- Thân Người Khó Được.
- Thần thông bất năng địch nghiệp.
- Thần Thông Và Nghiệp Lực.
- Thấy Thân Giả Dối Có Phải Quan Niệm Chán Đời Chăng?
- Thanh Niên Với Việc Đi Chùa.
- Thế gian chú tâm vào việc nhỏ, bỏ việc lớn.
- Thế Nào Là Anh Hùng?
- Thế Nào Là Phật Pháp?
- Thiền Tông Là Cội Gốc Của Đạo Phật.
- Thiền Tông Là Cội Gốc Của Đạo Phật.
- Thiền Tông Và Kinh Điển Không Hai.
- Thiền Tông Việt Nam Cuồi Thế Kỷ 20.
- Thiền Và Thắng Trí.
- ThuyếtLuân Hồi.
- Tiệc Trà Cuối Năm. (Tất niên Mậu Thìn-1989)
- Tìm Chân lý
- Tìm Lại Mình, Biết Được Mình Là Trên Hết. (Tất niên Mậu Thìn-1989)
- Tìm Ngọc Như Ý
- Tín Tâm
- Tinh Thần Giác Ngộ Của Đạo Phật Qua Ngày Lễ Vu Lan.
- Tinh Thần Giải Thoát Trong Giáo Lý Phật-đà. (Xuân Mậu Thìn-1988)
- Tinh thần hiếu thảo – ngày Vu Lan Tự Tứ.
- Tinh Thần Tự Do Của Phật Giáo.
- Tinh Thần Tự Do Trong Đạo Phật.
- Tinh Thần Xuất Trần Của Đạo Phật.
- Tình Thương Sẽ Không Còn Khi Người Ta Cần Ngon Miệng.
- Tổ Sư Thiền.
- Tội Phước.
- Trách Vụ Tăng Ni Đối với Cư sĩ.
- Tri Thức Và Trí Tuệ.
- Trọng Trách Người Tu Phật (Tất niên Kỷ Tỵ 1990)
- Tứ Ân Trong Ý Chí Hiếu Tu.
- Từ Bi.
- Từ bi và trí tuệ.
- Tu Ba Nghiệp.
- Tu Có Chuyển Được Nhân Quả Không.
- Tu dừng, chuyển và sạch nghiệp
- Tu Hành Phải Tinh Tấn.
- Tu Là Cầu Bình An Hay Sửa Đổi Xấu Thành Tốt?
- Tu Là Chuyển nghiệp Là Dẹp Bỏ Tham Sân Si.
- Tu Là Hiền.
- Tu Là Nguồn hạnh Phúc.
- Tu Thiền.
- Tu Trong Mọi Hoàn Cảnh.
- Tu Trước Khổ Sau Vui.
- Tuổi Trẻ Với Hạnh Nhẫn Nhục.
- Tuổi Trẻ Với Lòng Từ Bi.
- Tuổi Trẻ Với Vấn Đề Diệt Dục.
- Tuổi Trẻ Với Vấn Đề Giải Thoát.
- Tuổi Trẻ Với Vấn Đề Hổ Thẹn.
- Tuổi Trẻ Với Vấn Đề Trí Tuệ.
- Tượng Bồ-tát Đại Thế Chí.
- Tượng Bồ-tát Địa Tạng.
- Tượng Bồ-tát Phổ Hiền.
- Tượng Bồ-tát Quán Thế Âm.
- Tượng Bồ-Tát Văn Thù Sư Lợi.
- Tượng Đức Di Lặc.
- Tượng Phật A Di Đà.
- Tượng Phật Thích Ca Mâu ni.
- Tùy Duyên Bất Biến.
- Tuỳ Duyên Nhi Bất Biến.
- Tùy Hỷ Công Đức.
- Uống Nước Nhớ Nguồn
- Ước Nguyện Đầu Xuân
- Vài Quan Niệm của Người Tu Phật
- Vấn Để Then Chốt Của Người Tu Phật.
- Vào Cổng Nhà Thiền.
- Vào Cửa Không.
- Vẻ đẹp tuyệt trần. (Xuân Tân Mùi, Tăng Ni)
- Vô Minh.
- Vô Sư Trí Vi Tôn.
- Vu lan – ngày Tự tứ.
- Vui nào tạm bợ, vui nào chân thật.
- Xuân Miên Viễn.
- Xuân Nhâm Thân nói chuyện con khỉ. (chúc Tết Phật tử ,1992)
- Xuân Tinh Tấn.
- Xuân Trong Cửa Thiền.
- Ý nghĩa của tượng Phật Thích Ca Mâu Ni.
- Ý Nghĩa Chữ Huệ Quang.
- Ý nghĩa chữ tu.
- Ý Nghĩa Phẩm Thí Dụ Trong Kinh Pháp Hoa
- Ý nghĩa xuất gia – Tam Tuệ – Tam Vô Lậu Học
Hòa thượng Thích Thanh Từ là cao tăng của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại, nhà hoằng pháp lớn, dịch giả và tác gia nổi tiếng về Phật học, người có công dịch giải nhiều nhất về thiền tông, người phục hưng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Tiểu sử hòa thượng thiền sư Thích Thanh Từ
Hòa thượng húy là Trần Hữu Phước, pháp danh Thích Thanh Từ, sau đổi lại húy là Trần Thanh Từ. Sinh ngày 24 tháng 07 năm Giáp Tý (1924), tại ấp Tích Khánh, làng Tích Thiện, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long).
Thân phụ của Hòa thượng húy Trần Văn Mão, từ nhỏ theo nghiệp Nho, giữ nếp sống thanh bần. Cụ ông theo đạo Cao Đài, lập gia đình hơi muộn. Thân mẫu của Hòa thượng húy Nguyễn Thị Đủ quê làng Thiện Mỹ, dòng thanh bạch, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Cụ bà chân chất hiền lành, suốt đời tận tụy hi sinh vì chồng vì con.
Hòa thượng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng, nhưng Người đã nổi bật những nét riêng từ thuở ấu thơ: trầm mặc, ít nói, thích đọc sách, có chí xuất trần và đặc biệt rất hiếu thảo với Cha Mẹ.
Khoảng năm 9 tuổi, nhân theo Cụ ông lên Mốp Văn, Long Xuyên thọ tang người Bác thứ ba, Hòa thượng được đến chùa Sân Tiên trên núi Ba Thê cúng cầu siêu cho Bác. Duyên xưa gặp lại, nghe tiếng chuông chùa ngân dài giữa khoảng thinh không cô tịch, Hòa thượng rúng động như có một nỗi niềm giao cảm tự bao giờ. Bất thần Người xuất khẩu thành thơ:
“Non đảnh là nơi thú lắm ai,
Đó cảnh nhàn du của khách tài.
Tiếng mõ công phu người tỉnh giấc,
Chuông hồi văng vẳng quá bi ai!”
Có thể nói rằng chí xuất trần của Hòa thượng nổi dậy kể từ đây.
Sớm chìm nổi theo dòng đời và nhất là sống trong thời loạn lạc, Hòa thượng càng thấm thía, càng đau xót nỗi thống khổ của con người. Chí xuất trần của Hòa thượng vì thế càng trở nên mãnh liệt hơn và Người luôn ôm ấp một tâm niệm: “Nếu tôi không thể làm một viên linh đơn cứu tất cả bệnh của chúng sanh, ít ra cũng là một viên thuốc bổ giúp cho người bớt khổ.”
Từ dạo đó trái nhân duyên đã chín muồi, cuộc đời của Hòa thượng rẽ sang một con đường sáng.
Ngày 15 tháng 07 năm Kỷ Sửu 1949, sau ba tháng công quả tại chùa Phật Quang, Hòa thượng được Tổ Thiện Hoa chánh thức cho xuất gia với pháp danh là Thanh Từ. Thế là ước nguyện của Người đã được thành tựu. Từ đây Hòa thượng siêng năng theo Tổ công phu bái sám, vừa học giáo lý, vừa dạy trẻ em. Ngoài ra còn phụ trông nom coi sóc mấy chục chú Tiểu trong chùa. Công việc tuy nhiều, song Hòa thượng luôn để tâm học Giáo điển.
Hòa thượng Thích Thanh Từ học Phật tại các Phật học đường
Năm 1949-1950, Hòa thượng theo học lớp Sơ đẳng năm thứ ba tại Phật học đường Phật Quang.
Đến năm 1951, Hòa thượng bắt đầu học lên Trung đẳng.
Một khuya nọ, nhân đọc kinh Lăng Nghiêm đến chỗ Phật chỉ Tôn giả A-nan nhận ra Bản tâm chân thật của chính mình qua Tánh thấy, Tánh nghe, bất giác Hòa thượng xúc động rơi lệ. Phải chăng đây là dấu hiệu cho biết chủng duyên Phật pháp nhiều đời của Người đã bắt đầu nẩy mầm?
Cũng trong năm này chùa Phật Quang bị binh biến, Tổ Thiện Hoa phải dời Tăng chúng lên chùa Phước Hậu, Hòa thượng cũng được theo và thọ giới Sa-di tại đây do Tổ Khánh Anh làm Hòa thượng đàn đầu.
Năm 1953 Hòa thượng theo Bổn sư là Tổ Thiện Hoa lên Sài Gòn, tiếp tục học lớp Trung đẳng tại Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang. Tại đây, Hòa thượng được thọ giới Cụ túc do Tổ Huệ Quang làm Hòa thượng đàn đầu.
Từ năm 1954-1959, Hòa thượng học Cao đẳng Phật học tại Phật học đường Nam Việt. Những vị đồng khóa cùng ra trường với Hòa thượng như quý ngài Huyền Vi, Thiền Định, Từ Thông…
Như vậy là ngót mười năm Hòa thượng đã trải qua hai năm Sơ đẳng, ba năm Trung đẳng, bốn năm Cao đẳng. Tốt nghiệp các lớp Phật học xong là đoạn đường Tăng sinh đã hoàn tất. Hòa thượng bước sang thời kỳ hóa đạo. Hòa thượng là một vị Giảng sư trong Giảng sư đoàn của ban Hoằng pháp, có uy tín lớn thời bấy giờ và được sự mến mộ của Phật tử xa gần.
Các vai trò của Hòa thượng Thích Thanh Từ trong Phật giáo
Năm 1960-1964, Hòa thượng đã giữ những chức vụ trong Phật giáo:
– Phó vụ trưởng Phật học vụ.
– Vụ trưởng Phật học vụ.
– Giáo sư kiêm Quản viện Phật học viện Huệ Nghiêm.
– Giảng sư Viện đại học Vạn Hạnh và các Phật học đường Dược Sư, Từ Nghiêm,…
Hòa thượng Thích Thanh Từ nhập thất và phát triển Thiền tông
Sau lễ mãn khóa Cao Trung Chuyên khoa tại Huệ Nghiêm và Dược Sư, Hòa thượng thầm nghĩ với ngần ấy đóng góp cũng phần nào tạm đủ nói lên tấm lòng tri ân và báo ân của mình đối với Thầy Tổ rồi. Hòa thượng liền xin phép với Tổ Thiện Hoa được lui về núi ẩn tu. Chí đã quyết, Hòa thượng dằn lòng dứt áo ra đi, âm thầm một mình một bóng lên chốn non thâm.
Hòa thượng đã thật sự giã từ Phật học viện, giã từ phấn bảng với năm tháng miệt mài vì tứ chúng. Nhưng hai tiếng “Tăng Ni” vẫn xoáy sâu vào lòng Người, để sau này chút duyên “Thầy Trò” ấy lại gặp nhau và càng thêm son sắt trên đỉnh Tương Kỳ.
Tháng 04 năm 1966, Hòa thượng dựng Pháp Lạc thất trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu. Ngôi thất lá vuông vức bốn thước đơn sơ với bộ Đại Tạng Kinh, nhưng đã ấp ủ một Thiền tăng nghèo quyết nhận lại cho kỳ được hạt châu vô giá của chính mình.
Đến rằm tháng tư năm Mậu Thân, Hòa thượng tuyên bố nhập thất vô hạn định với lời kiên quyết: “Nếu đạo không sáng, thệ không ra thất.” Thế là cửa sài đôi cánh khép. Toàn thể môn nhân quy ngưỡng lên non một lòng mong đợi.
Tháng 07 năm 1968, Hòa thượng liễu đạt lý sắc không, thấu suốt thật tướng Bát-nhã. Từ con mắt Bát-nhã trông qua Tạng kinh, lời Phật, ý Tổ hoác toang thông thống. Giáo lý Đại thừa và thâm ý nhà Thiền đã được Hòa thượng khám phá từ công phu thiền định của Người.
Ngày 08 tháng 12 năm ấy, Hòa thượng tuyên bố ra thất giữa bao niềm hân hoan của Tăng Ni, Phật tử. Nước cam lồ từ đây rưới khắp, suối từ bi từ đây tuôn chảy. Pháp Lạc thất thật xứng đáng là linh hồn của dòng thiền Chân Không. Nơi đây, đánh dấu một giai đoạn chuyển mình, một bước ngoặc lớn trong cuộc đời tu của Hòa thượng. Hoài bão tu Thiền đã thai nghén bao năm trong thầm lặng đơn độc của Người, đến đây mới thật sự có điểm khởi phát và lớn dậy, để sau này Phật giáo Việt Nam vinh dự có một ngôi sao sáng mở ra trang Thiền sử Việt Nam rực rỡ huy hoàng vào cuối thế kỷ 20.
Hòa thượng đã từng nói: “Tôi là kẻ nợ của Tăng Ni và Phật tử. Ai biết đòi thì tôi trả trước, ai chưa biết đòi thì trả sau.” Suốt đời Ngài đều dốc hết sức mình lo cho Phật pháp, đặc biệt là làm sống lại Thiền tông đời Trần, tạo điều kiện cho Tăng Ni tu hành tiến bộ. Tăng Ni tu hành có tiến bộ thì Phật pháp mới còn và lớn mạnh được. Sự tu hành tiến bộ của Tăng Ni là niềm vui của Ngài. Ngài nói: “Hoài bão của Thầy đều gởi gắm hết vào sự nỗ lực tu tập của tụi con. Tăng Ni tu có niềm vui, sáng được việc lớn, đó là biết thương tưởng đến Thầy. Bằng ngược lại thì thật là Thầy chưa đủ phước để được vui trước khi nhắm mắt. Bởi vì nguyện vọng khôi phục Thiền tông Việt Nam, đặc biệt là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần của Thầy chưa thành tựu.”
Các Thiền viện do Hòa thượng Thích Thanh Từ thành lập
Các Thiền viện sau đây chính thức được Hòa thượng thành lập, làm nơi giáo hóa và hướng dẫn tu hành:
– Thiền viện Chân Không, núi Tương Kỳ – Vũng Tàu, thành lập vào tháng 04 năm 1971; dời về Thường Chiếu năm 1986, được phép tái thiết năm 1995.
– Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành – Đồng Nai, thành lập tháng 08 năm 1974.
– Thiền viện Viên Chiếu, Long Thành – Đồng Nai, thành lập tháng 04 năm 1975.
– Thiền viện Huệ Chiếu, Bà Rịa – Vũng Tàu, thành lập tháng 04 năm 1979.
– Thiền viện Linh Chiếu, Long Thành – Đồng Nai, thành lập tháng 02 năm 1980.
– Thiền viện Phổ Chiếu, Bà Rịa – Vũng Tàu, thành lập tháng 06 năm 1980.
– Thiền viện Tịch Chiếu, Long Hải, thành lập tháng 07 năm 1987.
– Thiền viện Liễu Đức, Long Thành – Đồng Nai.
– Thiền viện Trúc Lâm, Đà Lạt – Lâm Đồng, thành lập tháng 04 năm 1993.
– Chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, 2002.
– Thiền viện Tuệ Quang, Linh Trung, Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
– Thiền viện Hương Hải, Long Thành – Đồng Nai.
– Thiền viện Đạo Huệ, Long Thành – Đồng Nai.
– Thiền viện Tuệ Thông, Long Thành – Đồng Nai.
– Thiền viện Đại Đăng, Bonsall, California, Hoa Kỳ, thành lập năm 2001.
– Thiền viện Quang Chiếu, Forthworth, Texas, Hoa Kỳ, thành lập năm 2000.
– Thiền viện Bồ Đề, Boston, Hoa Kỳ, thành lập năm 2002.
– Thiền viện Diệu Nhân, Sacramento, Hoa Kỳ, thành lập năm 2002.
– Thiền tự Ngọc Chiếu, Garden Grove, California, Hoa Kỳ.
– Thiền tự Vô Ưu, San Jose, California, Hoa Kỳ.
– Thiền tự Đạo Viên, Québec, Gia Nã Đại, thành lập năm 2002.
– Thiền tự Thường Lạc – Pháp.
– Thiền tự Pháp Loa – Úc.
– Thiền tự Hiện Quang – Úc.
– Thiền tự Hỷ Xả – Úc.
– Thiền viện Tiêu Dao – Úc.
– Thiền tự Tuệ Căn – Úc.
– Hòa thượng cũng đã góp sức trùng tu hai Tổ đình Phật Quang và Phước Hậu, Trà Ôn, Vĩnh Long.
Hòa thượng giảng và dịch rất nhiều bộ Kinh, Luận và Sử từ Hán văn sang Việt văn. Ngoài ra Hòa thượng còn giảng giải rất nhiều bài pháp phổ thông cho Tăng Ni và Phật tử.
Hòa thượng Thích Thanh Từ đã đi du hóa và thăm viếng các nước:
– Cam-pu-chia (1956)
– Ấn Độ, Tích Lan và Nhật Bản (1965)
– Trung Quốc (1993)
– Pháp (1994 – 2002)
– Thụy Sĩ (1994)
– Indonesia (1996)
– Gia Nã Đại (1994 – 2002)
– Hoa Kỳ (1994 – 2000 – 2001 – 2002)
– Úc Châu (1996 – 2002).