HUYỀN TRANG – NHÀ CHIÊM BÁI VÀ HỌC GIẢ
Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar
Nguyên tác Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu-Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam tái bản, 1989
V. HUYỀN TRANG, NHÀ HÙNG BIỆN
Ngoài học hỏi và thuyết pháp, đặc điểm chính của Pháp sư trên đường tầm đạo, Pháp sư còn có một tài biện bác làm tăng uy tín của Ngài và nổi tiếng là một người hoàn toàn nắm vững Phật lý. Nhờ sự học rộng ấy, Ngài đã thắng thế trong mọi cuộc tranh luận.
Mỗi khi vừa đến ở yên một nơi nào, Ngài liền hỏi xem ở đấy có vị Pháp sư nào danh tiếng và Ngài đến bàn bạc về đạo lý, một đôi khi mở cuộc tranh luận công khai với vị này. Sự uyên bác của Ngài bao gồm cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa giáo. Khi Ngài tranh biện với những vị sư tiểu thừa, Ngài trích dẫn một cách chính xác những đoạn kinh văn của họ để minh chứng quan điểm của Ngài và nhờ vậy ngài luôn luôn thắng cuộc.
Khi Ngài đến kinh đô Khuất Chi tranh luận với một vị sư tiểu thừa danh tiếng là Mokshagupta (Mộc-xoa-cúc-đa), người tuyên bố đã biết tất cả các kinh điển Phật giáo và sở trường về Sabdavidya (Thanh minh). Lúc đầu ông đối đãi Pháp sư như một người khách thường, và còn có vẻ khinh mạn Ngài vì Ngài có ý định đi học “Du-già Sư-địa luận”, một bộ luận đại thừa mà ông xem như là một cuốn sách của tà thuyết.
Vì ông không biết kinh đại thừa và bởi vì ông tuyên bố rất am tường hai bộ luận Câu-xá và Tỳ-bà-sa, nên Pháp sư bảo ông hãy đọc đoạn đầu của Câu-xá luận. Ông ta vấp phải một lỗi lớn ngay từ đầu. Ngài hỏi một câu khác, ông ta cũng không giải thích được. Đoạn Pháp sư trích dẫn một đoạn khác nhưng Mokshagupta không trả lời, bảo rằng không có đoạn ấy trong quyển luận. Lúc ấy có người chú của vua tên Jnanachandra (Trí Nguyệt) là một người am tường kinh luận, ông ấy liền đưa ra một quyển sách và đọc lên đoạn văn để ủng hộ Pháp sư. Mokshagupta hổ thẹn bảo rằng vì ông ta già rồi nên trí nhớ lẫn lộn.
Pháp sư hỏi thêm về những quyển khác, nhưng ông ta không giải đáp được. Từ đấy Mokshagupta lẫn tránh Pháp sư nhưng vẫn kính nể ca tụng Ngài.
Khi đến Kunduz (Hượt quốc), Ngài đến thăm một vị Tỳ kheo tên Dharma-sangha (Đạt-ma-tăng-già) vốn nổi tiếng là một vị đại Pháp sư trong cả vùng cho đến dãy núi Pamir (Thông Lãnh) về phía tây. Không vị sư nào ở Kashgar (Số-lặc) và Kho-tan (Vụ điền) có thể biện bác về giáo lý với ông ta cả. Muốn dò xem ông ta hiểu biết giáo pháp đến mức nào, Pháp sư cho một người đến nơi để hỏi xem ông ta hiểu biết bao nhiêu kinh và luận. Khi nghe vậy đồ đệ của Dharmasangha tức giận nhưng Dharmasangha mỉm cười đáp ông ta biết tất cả kinh điển và sẵn sàng trả lời bất cứ câu hỏi nào. Pháp sư hỏi vài câu về Tỳ-bà-sa luận nhưng ông ta không thể trả lời thỏa đáng và công nhận rằng Pháp sư còn uyên bác hơn ông ta rất nhiều, trước sự thất vọng của các môn đệ.
Khi Pháp sư đến Kapisa (Ca-tất-thi), vua xứ ấy mời Pháp sư mở một cuộc tranh luận trong một ngôi chùa đại thừa với Ngài Prajnàkara (Bát nhã Yết-la, dịch là Huệ tánh) và ba Pháp sư uyên bác là Mano jnaghosa (Mạt-nô nhã-cu-sa, dịch là Ý-thanh) thuộc đại thừa, Aryavarmam (A-lê-da-phạt-ma, dịch là Thánh-Tào thuộc tông phái Sarvastivada (hay Nhất thế hữu bộ) và Gunabhadra (Cầu-na bạt-đà, dịch Đức-Quang thuộc tông phái Mahisasaka, hay Di-sa tắc bộ). Tất cả những người này đều uyên thâm kinh điển của tông phái mình, nhưng chỉ có Pháp sư là thông đạt tất cả kinh điển của Đại thừa và Tiểu thừa, nhờ vậy suốt cuộc tranh luận Ngài tỏ ra rất xuất sắc và mọi người đều kính phục sự uyên bác của Ngài.
Nhưng phần lớn chính là ở Đại học Nalanda mà danh tiếng Pháp sư về tài biện luận được vững chắc và lan rộng nhất, vì ở đấy Ngài có cơ hội mở các cuộc tranh luận không những để bài bác những người tà giáo mà còn chống lại những vị sư tiểu thừa và đôi khi chống lại vài vị sư đại thừa ở vài sai lầm của họ trong khi giảng giải lý thuyết Đại thừa giáo.
1. Chống những người ngoại đạo
Có một người thuộc Lokayatika (Thuận thế ngoại đạo) đến tu viện Nalanda để khiêu khích Pháp sư tranh biện. Ông ta dán trên cửa tu viện một mảnh giấy viết 40 quan điểm của phái mình và thách thức bất cứ kẻ nào bác được chúng. Trong trường hợp ông ta bị đánh bại, ông sẽ sẵn sàng cắt đầu xin lỗi. Sau nhiều ngày không ai bắt bẻ được điểm nào, Pháp sư cho một người ra xé mảnh giấy ném xuống đất và dẫm chân lên đấy. Người Bà-la-môn vô cùng tức giận, nhưng khi nghe nói người thị giả ấy từ Pháp sư đến thì ông ta hổ thẹn và không hỏi câu nào. Pháp sư gọi ông ta vào và trước sự hiện diện của ngài Silabhadra và những vị Tỳ kheo khác làm chứng, Pháp sư bắt đầu tranh luận với ông ta về những lý thuyết tà phái. Ngài nói:
–“Những người tà giáo Bhuta (Bộ-đa ngoại đạo) Nirgrantha (Lý-hệ ngoại đạo) Kapalika (Lâu-man ngoại đạo) và Jutika (Thù-trưng-già ngoại đạo) có cách phục sức khác nhau, trong khi những người thuộc tà phái Sankhya (Số luận) và Vaiseshika (Thắng luận) thì truyền bá những lý thuyết khác biệt. Những người Bhuta (Bộ-đa ngoại đạo) bôi tro lên mặt mình xem như là một phép để luyện tinh thần, làm cho thân thể bụi bặm trắng xám như một con mèo trong lò.
Những người Nirgranthas (Lý-hệ ngoại đạo) thì lõa thể, có những tập quán kỳ quặc, nhổ tóc râu và xem những hành vi ấy là công đức. Họ trông giống những cây mục bên bờ sông, với làn da lở loét và bàn chân nứt rạn của họ. Những người Kapalika (Lâu-man ngoại đạo) thì trang sức bằng những chuỗi sọ người đeo trên cổ, và với vẻ hốc hác kinh hoàng họ giống như những hồn ma nơi nghĩa địa. Những người Jutikas (Thù-trung già ngoại đạo) khoác những tấm vải đầy bụi và ăn phẩn, hôi thối như con heo điên trong ao rác bẩn. Thật điên rồ khi họ xem những sự luyện tập này là đường đi đến giác ngộ.
Về phần những người tà phái Số luận, họ đưa ra 24 đế nghĩa, hay nguyên lý của sự thật. Từ Prakrti (tự tánh) sinh ra Mahat (đại đế), từ Mahat (đại đế) sinh ra Ahamkara (ngã chấp). Rồi liên tiếp sinh ra năm Tanmatras (ngũ duy lượng: sắc, thinh, hương, vị xúc), ngũ đại (hỏa, không, địa, thủy, phong) và mười một căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, bì (ngũ tri căn; ngũ cụ, thủ, túc, tiểu tiện xứ, đại tiện xứ, (ngũ tác nghiệp); tâm bình đẳng căn. Hai mươi bốn đế này phụng sự Purusha (thần ngã) và thần ngã sử dụng chúng. Khi giải thoát khỏi chúng, thần ngã được thanh tịnh.
Những người Thắng luận (Vaiseshikas) thiết lập 6 cú nghĩa (phạm trù): Thực, Đúc, Nghiệp, Đồng, Dị, Hòa hiệp. Sáu phạm trù này là những đối tượng thuộc sở hữu của ngã. Trước khi giải thoát, ngã sử dụng những phạm trù này. Khi thoát khỏi chúng, ngã được coi là ở trạng thái Niết-bàn.
Bây giờ tôi sẽ bài bác lý thuyết của những người 25 luận. Ông nói rằng trong 25 đế, thần ngã có một linh chất đặc biệt. Hai mươi bốn số còn lại đồng bản chất với nhau nhưng thần ngã hay tự tánh thì được phối hợp do ba đức gọi là hỷ, ưu, và ám.
Ba đức này cũng thiết lập nên 23 đế kia bắt đầu là đại đế, v.v… Mỗi đế gồm ba đức trên. Bấy giờ nếu đại đế và những đế khác tất cả đều lập thành do ba đức ấy, chúng sẽ như một đám hỗn độn, một khu rừng, không có sự tồn tại chắc thật gì cả, làm sao Ngài nói chúng là thực được?
Lại nữa, nếu đại đế và những đế còn lại đều thiết lập bởi ba đức trên, thì đế này phải giống hệt đế khác. Và nếu đế này cũng giống những đế khác, thì nó sẽ làm chức vụ hệt như những đế khác. Nhưng sự thực không như vậy, thế thì làm sao Ngài có thể quyết đoán rằng ba đức ấy là chung cho tất cả?
Lại nữa nếu đế này cũng hệt như tất cả những đế khác thì những cơ quan như miệng, mắt, v.v… sẽ đồng thời là những cơ quan bài tiết. Và nếu có cơ quan nào làm nhiệm vụ của những cơ quan khác, thì miệng, tai v.v… phải ngửi được hương và thấy hình sắc. Nhưng thực tế không như vậy, thì làm sao Ngài lại nói được rằng ba đức đều chung cho mọi đế. Làm sao những người có trí tuệ lại tuyên dương một lý thuyết như vậy?
Hơn nữa nếu Prakrati (tự tánh) là bất diệt, thì nó sẽ đồng bản chất như Purusha (thần ngã), vậy sao nó còn biến ra Mahat (đại đế) và những đế khác. Lại nếu nói bản chất của thần ngã là bất diệt, thì nó phải đồng nhất với tự tánh và tính chất của nó không phải là thần ngã. Nhưng nếu nó đồng nhất với tự tánh thì tính chất của nó không phải là thần ngã và sẽ không được sử dụng những đế khác. Trong trường hợp này thần ngã không thể là chúa tể; người sử dụng, và 24 đế kia cũng không thể là đối tượng bị sử dụng. Đã không có chủ tể và đối tượng cũng không, thì lý thuyết về chân lý của Ngài cũng không thể lập được.”
Pháp sư bài bác những tà kiến một cách hùng biện như thế, và người Bà-la-môn phải im lặng nghe Ngài nói. Cuối cùng ông ta đứng lên công nhận mình thua cuộc.
2. Chống lại những người tiểu thừa giáo
Pháp sư còn phải đương đầu với một thử thách khác, lần này không phải do những người chủ tà thuyết mà do chính những thầy tiểu thừa Phật giáo.
Lúc bấy giờ vua Siladitya (Giới Nhật) đã dựng một đền bằng đồng đen cao 24 bộ bên cạnh tu viện Nalanda. Trên đường đi chinh phục xứ Konyodha (Cung-ngư-đà) vua đến xứ Uda (Ô-Trà). Ở đấy những vị sư có ác cảm với giáo lý Đại thừa, họ trách vua đã dựng một đền như thế gần tu viện Nalanda. Họ cho rằng mặc dù đền ấy vĩ đại thật, nhưng xây cạnh tu viện Nalanda thì cũng không khác gì một đền tà giáo nào. Những vị sư ở tu viện Nalanda là những người tà thuyết Sunyapushpa (Không-hoa ngoại đạo) nên cũng giống như những người tà thuyết Kapalikas. Đoạn họ đưa cho vua xem một bản văn gồm 700 đoạn do Prajnagupta (Bát-nhã Cúc-đa), một người Bà-la-môn viết để phỉ báng Đại thừa và thách bất cứ vị sư Đại thừa nào bác được một chữ nào trong bản ấy. Vua bảo họ:
“Đệ tử đã nghe chuyện những con chồn và chuột cống tuyên bố mình anh hừng hơn sư tử, nhưng vừa thấy bóng sư tử chúng liền chạy trốn như một bóng ma. Chư vị chưa được thấy những học giả uyên bác của Đại thừa, cho nên mới bám chặt lấy quan điểm hẹp hòi ngu dốt của mình. Nhưng một khi chư vị đứng trước những học giả Đại thừa, chư vị sẽ giống như những chồn và chuột kia.”
Bất mãn trước lời lẽ của nhà vua, những vị sư tiểu thừa yêu cầu vua sắp đặt một cuộc tranh luận giữa những đại diện của hai phái, để phân thắng bại. Vua nhận lời, viết một bức thư cho Tỳ-kheo Silabhadra (Giới Hiền) nhờ chọn bốn vị sư uyên bác để dự cuộc tranh luận. Ngài Silabhadra (Giới Hiền) cử Sagarajanana (Hải Huệ), Prajanaprabha (Trí Quang), Simhaprabha (Sư tư Quang) và Pháp sư Huyền Trang. Ba vị kia đều lo lắng. Nhưng Pháp sư trấn an họ, bảo rằng Ngài đủ khả năng biện bác với những vị tiểu thừa vì đã từng học hết Tam tạng, giáo điển của các tông phái tiểu thừa ở Trung Hoa và ở Kashmir (Ca-thấp-ba) và họ không thể nào bác được giáo lý đại thừa với thuyết riêng của họ. Nếu Ngài thua cuộc, thì chỉ là sự thất bại của riêng cá nhân Ngài, một quốc sư Trung Quốc mà thôi chứ không tổn hại gì đến uy tín của Đại thừa. Những vị sư kia đều hoan hỷ trước lời lẽ của Ngài.
Sau đó Pháp sư tìm một bản văn của Prajnagupta (Bát-nhã Cúc-đa) và nhờ một người Bà-la-môn người mà Ngài đã thắng trong một cuộc tranh luận giải thích cho Ngài. Đọc xong Pháp sư viết cuốn “Chế-ác luận” gồm 1600 đoạn để bác quyển sách trên bằng giáo lý đại thừa. Ngài đưa tác phẩm mình cho Ngài Silabhadra (Giới Hiền) và môn đệ xem, tất cả đều ca ngợi Ngài, cho rằng với sự học hiểu sâu rộng về chánh pháp, chắc chắn Ngài sẽ vô địch trong mọi cuộc tranh luận. Tác phẩm này còn được tồn trữ ở một nơi nào đó và ngày nay chúng ta rất mong được xem để biết Pháp sư đã dùng giáo lý đại thừa để bài bác tiểu thừa như thế nào.
Về sau, khi Pháp sư gặp vua Siladitya (Giới Nhật), Ngài đưa cho xem tác phẩm và sau khi đọc, vua hết sức vui mừng nói với quan Phụ đạo:
“Môn đệ đã từng nghe: Khi mặt trời chiếu xuống, thì ánh lửa của lò sưởi và của đèn nến trở nên lu mờ không thấy được; và khi trời sấm thì tiếng búa không thể nào nghe được. Bây giờ Pháp sư Huyền Trang đã bài bác tất cả những lý thuyết mà chư vị đã tin theo, trẫm muốn xem chư vị bảo vệ chúng cách nào.”
Tất cả các vị sư đều im lặng. Vua lại nói: “Ngài Devasena… tự cho mình xuất sắc nhất trong đám học giả và uyên thâm mọi hệ thống triết học, Ngài thường đưa ra nhiều lý thuyết và luôn luôn phỉ báng giáo lý đại thừa. Ngay khi Ngài nghe Pháp sư đến, ngài liền bỏ đi đến Vaisali (Tỳ-xá-ly) để chiêm bái thánh tích, lấy cớ ấy để lánh mặt. Như thế thì trẫm biết chư vị đều bất lực.”
Vua có một người em gái rất thông minh và thâm hiểu học phái Sammatiya (Chánh lượng bộ). Bà lắng nghe lời giảng của Pháp sư về Phật lý sâu xa của đại thừa và rất vui mừng tán thán Ngài. Khi ấy vua hạ chiếu chỉ mời tất cả các học giả đến hội ở Kanyakubja (Khúc-nữ thành) để thảo luận về tác phẩm của Pháp sư.
Mười tám vị vua ở 5 xứ Ấn Độ đến dự hội cùng với 3.000 Tỳ-kheo uyên bác cả đại thừa lẫn tiểu thừa giáo, hơn 2.000 Bà-la-môn và người tà giáo Nirgrantha cùng 1.000 tu sĩ ở tu viện Nalanda. Hai thảo đường đồ sộ được dựng lên ở hội trường, mỗi nhà chứa được đến 1.000 người, và đều an vị một tượng Phật.
Vào ngày đã định, vua Siladitya (Giới Nhật) dành riêng một con voi chở một tượng Phật vàng đúc sẵn cho dịp ấy, có tàng lọng bằng ngọc ngà che phủ. Vua mặc sắc phục Indra (Đế Thích) cầm cờ trắng theo hầu phía bên phải. Vua Kumara (Cưu-ma-la) mặc sắc phục Phạm Thiên cầm lọng quỳ theo hầu bên trái. Cả hai vua đều ăn mặc lộng lẫy, vương miện nạm ngọc và trang hoàng bằng ngọc bích. Pháp sư cỡi voi đi sau, cùng với những phụ đạo của vua. Đám rước gồm ba trăm thớt voi dành cho các vua, đình thần và các vị Tỳ-kheo giới đức trang nghiêm. Khi đám rước tiến hành có nhạc trỗi và hoa rắc.
Đến hội trường, hai vua xuống voi cung nghênh tượng Phật vào an vị trên một chiếc đế trang hoàng lộng lẫy. Đoạn Pháp sư và các vị vua đảnh lễ tượng. Sau đó 18 vị vua được mời vào thảo đường cùng với 1.000 vị Tỳ-kheo uyên bác từ khắp các xứ và 500 vị Bà-la-môn danh tiếng. Rồi đến 200 vị công thần từ các xứ vào an tọa. Những cư sĩ Phật giáo và tín đồ các giáo phái khác đều đứng ở ngoài. Đoạn thực phẩm đươc phân phát cho mọi người trong và ngoài thảo đường. Khi ăn xong, vua Siladitya cúng dường tượng Phật một khay bằng vàng, bảy chén bạc, một chậu tắm bằng vàng, 3.000 quan tiền vàng, 3.000 bộ tăng phục nỉ dạ. Lễ vật cúng dường được dâng cho Pháp sư và các vị sư khác.
Pháp sư được mời an tọa ghế danh dự, một chỗ ngồi trang hoàng rực rỡ, dể làm chủ tọa buổi hội thảo và trình bày nội dung tác phẩm Ngài. Một vị sư chùa Nalanda là Vidyabhadra (Minh Hiền Pháp sư) được cử tọa ra đọc bản văn cho thính giả trong khi ở bên ngoài phòng hội cũng có treo một bản để công chúng xem qua. Lại có thông cáo rằng nếu có điểm nào trong ấy bị bác, thì tác giả tình nguyện hiến đầu cho người thắng cuộc. Suốt ngày cho đến sẫm tối, đám thính giả đông đảo không dám nêu lên một lời bác nào. Buổi họp được hoãn lại trước sự hân hoan của vua Siladitya. Suốt năm ngày liền, những nghi thức tương tự được tiếp diễn và vẫn không ai dám đương đầu với Pháp sư cả.
Vào cuối ngày thứ năm, một vài người tiểu thừa giáo âm mưu với một số người tà phái để ám sát Pháp sư. Nhưng vua mật hay tin này liền ra chiếu chỉ sẽ bêu đầu những ai động đến Pháp sư và cắt lưỡi kẻ nào nói xấu Ngài. Vua cũng minh xác rằng ai muốn tranh luận với Pháp sư đều được phép tự tiện, không bị cản trở gì. Lời tuyên bố của nhà vua phá tan ngay mầm mống âm mưu ấy, và trong 10 ngày, cuộc hội họp được tiếp diễn im lặng. Và ngày cuối cùng khi buổi học bế mạc theo chương trình đã định, Pháp sư lên diễn đàn và một lần nữa tán dương sự vô thượng thậm thâm của giáo lý đại thừa.
Lời nói hùng hồn của Ngài đoan quyết, lý lẽ của Ngài vững chắc đến nỗi nhiều người bỏ ngay tà kiến của họ và quy y theo đại thừa tại chỗ. Vua Siladitya vô cùng hân hoan trước kết quả rực rỡ của Pháp sư và ca tụng Ngài không ngớt; để diễn tả niềm vui sướng và sự kính trọng sâu xa của mình, vua cúng dường Ngài 10.000 đồng vàng, 30.000 đồng tiền bạc và 100 bộ tăng phục. Mười tám vị vua kia cũng tranh nhau cúng dường rất nhiều phẩm vật quý giá, nhưng Ngài từ chối tất cả các đồ cúng dường.
Vua sai thắng một kiệu voi vô cùng lộng lẫy với thảm gấm và cờ lọng, cung thỉnh Pháp sư lên kiệu để đi vòng quanh hội trường, có đình thần theo hầu, để dân chúng biết được chính Ngài đã thắng cuộc. Nhưng đức khiêm cung của Pháp sư không bao giờ mất ngay cả khi Ngài ở trên tuyệt đỉnh của danh vọng. Ngài từ chối lời cầu thỉnh, nhưng Vua khẩn khoản Ngài, bảo rằng đó là cổ tục từ nghìn xưa cần phải tuân theo một cách triệt để. Khi ấy bộ tăng phục của Pháp sư được đặt lên kiệu voi và những lời tuyên bố sau đây được truyền rao cho công chúng:
“Vị Pháp sư Trung Quốc đã thiết lập đại thừa và phá hủy mọi tà thuyết. Trong 18 ngày, không ai dám đối lập. Nay tin cho công chúng biết.”
Mọi người đều hân hoan trước sự thành công ấy và tiến lên chúc tụng Pháp sư. Người đại thừa phong tặng cho Pháp sư danh hiệu là Đại thừa thiên và những vị tiểu thừa thì xưng tụng Ngài là Mộc-Xoa-Đề-Bà (Giải thoát thiên).
3. Chống lại những người Đại thừa
Một đôi khi Pháp sư còn phải bênh vực Đại thừa giáo chống lại chính những người Đại thừa, chẳng hạn chống lại Tỳ-kheo Simhaprabha (Sư tử Quang). Vị này là người uyên thâm Bách luận và Trung quán luận. Trong các lớp học và các cuộc đàm luận, Ngài thường chủ trương loại bỏ thuyết Du-già về bản chất của thực tại tuyệt đối. Ông cho rằng vì Trung quán chủ trương mọi sự đều không, không có thực tính, cho nên thuyết Du-già cũng phải bị bác bỏ? Nhưng Pháp sư rất thông đạt nghĩa lý của Trung quán, Bách luận và Du-già Sư-địa luận. Theo Pháp sư, những luận sư khi lập thuyết thường tuyên dương nhiều quan điểm sai khác. Nhưng trên lý thuyết căn bản thì giữa họ không có mâu thuẫn nào.
Những đồ đệ sau này vì không hiểu được phần vi diệu của giáo lý các Ngài nên nắm lấy vài mâu thuẫn bên ngoài mà trở thành xung đột nhau. Pháp sư bảo Simhaprabha (Sư tử Quang) rằng giáo lý của Trung quán luận và Bách luận chỉ bài bác những kiến giải cho là có thực tính những gì giả ảo. Nhưng nó không phủ nhận bản chất của duyên khởi và thực tại tuyệt đối. Để đưa ra một sự tương đồng dễ hiểu giữa Trung-quán và Du-già, Pháp sư viết một luận án nhan đề là “Hội Tông luận” gồm 3.000 đoạn.
Pháp sư Giới Hiền ca tụng là một tác phẩm xuất sắc và giới thiệu nó với tất cả các vị thầy và học tăng. Sư tử Quang cảm thấy hổ thẹn bỏ đi đến chùa Bồ Đề và nhờ bạn học là Candrasimha (Sư Tử Nguyệt) ở Đông Ấn tranh luận với Pháp sư để trả thù cho mình. Nhưng khi Candrasimba (Sư tử Nguyệt) đến trước Pháp sư, ông ta cảm thấy vô cùng quy phục Ngài và giữ im lặng. Một lần nữa Pháp sư lại tỏ ra một nhà biện luận vô địch và danh tiếng Ngài lan xa rộng.
Trong các cuộc tranh luận, thói thường là phe bại luôn luôn đem lòng thù hận kẻ thắng. Nhưng chúng ta nhận thấy trong các cuộc tranh luận của Pháp sư, Ngài luôn luôn cố gắng làm dịu tình thế để nâng đỡ phe bại, và nhờ thế Ngài vượt trên đối thủ không chỉ về tài học rộng mà còn về đức quảng đại của Ngài.
Khi Pháp sư đánh bại một tà phái Bà-la-môn ở Nalanda, người này xin nạp đầu mình như đã hứa trước khi tranh luận. Pháp sư bảo ông ta rằng những Phật tử không bao giờ sát sanh, và Ngài sẽ vui lòng để cho ông ta theo hầu một thời gian. Người Bà-la-môn sung sướng vâng lời Ngài và đến làm việc trong phòng Ngài ở Nalanda. Về sau, khi người này giảng cho Pháp sư một bản văn tiểu thừa do Prajnàgupta viết để bác Đại thừa giáo, Ngài liền trả tự do cho ông ta, ông này rất vui mừng trước lòng độ lượng của Pháp sư. Ông ta đến Kumarapa và nhiệt liệt ca ngợi giới đức của Ngài cho Vua Kumara xứ ấy. Như thế không những người Bà-la-môn thất bại đã không đem lòng thù oán Pháp sư mà còn ca tụng sự vinh quang của Ngài trong cuộc tranh luận.
Lại bức thư sau đây do Pháp sư gửi từ Trung Quốc cho Ngài Prajnadeva (Bát-nhã Đề Bà) người mà Ngài đánh bại trong cuộc hội thảo ở Kanyakubja (Khúc Nữ thành) chứng tỏ sự tế nhị của Pháp sư đối với đối thủ một thời của Ngài:
“Ngày trước khi đi chiêm bái bần tăng đã hân hạnh gặp Ngài. Và trong thành phố Kanỳakubja, bần tăng đã tranh luận với Ngài để dò sự nông sâu của nhau về chánh pháp, trước sự hiện diện của các vị vua và đông đảo dân chúng. Một bên thiết lập những nguyên lý của Đại thừa giáo; trong khi bên kia giữ vững lý thuyết của Tiệm giáo. Trong khi trao đổi quan niệm qua lại, không sao tránh khỏi có lời lẽ nóng nảy thiếu nhã nhặn. Tiêu chuẩn của chúng ta là duy trì chánh lý, bất chấp tình cảm riêng tư. Do đó mà rất có thể bần đạo đã làm phật ý tôn huynh.
Nhưng một khi cuộc tranh luận đã xong, thì mọi xung đột cá nhân phải tan biến. Nay tôn huynh còn cho người chuyển đến bần tăng những lời xin lỗi của tôn huynh, điều ấy chứng tỏ tôn huynh đã nghĩ ngợi quá nhiều. Ngài chính thực là một Pháp sư hùng hồn uyên bác và giới đức hoàn toàn. Ngài có mục đích vững vàng, vi diệu và cao vời. Nước hồ Anavatapta (vô nhiệt) không thể nào sánh được với bể kiến thức mênh mông của tôn huynh và ngọc mani cũng còn thua sự tinh khiết của giới hạnh Ngài.”
Với một bức thư như thế, thì tánh tình người khó khăn đến đâu cũng phải bị thu hút và thật chúng ta không lấy làm lạ khi những cuộc tranh biện của Pháp sư với nhiều đối thủ như thế đã không để lại một dấu vết nào của sự thù hằn cay độc.