11.- Tổ Phú-Na-Dạ-Xa ( Punyayasas )

11_- Tổ Phú-Na-Dạ-Xa ( Punyayasas )

Tổ thứ 11: Phú Na Dạ Xa (Punyayasas; puṇayaśa)
第 十 一 祖 富 那 夜 奢 尊 者
Giữa thế kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn. Ngài dòng Cù-Đàm ở nước Hoa-Thị, thân phụ là Bảo-Thân. Thân phụ sanh được bảy người con trai, Ngài là con út.
Thuở nhỏ. Ngài tâm tư bình thản không tịnh không loạn. Ngài thường nói với các anh:- Nếu gặp bực đại-sĩ ngồi nơi đạo tràng thuyết pháp, em quyết đến đó gần gũi tùy hỷ.

Khi Tổ Hiếp-Tôn-Giả đến nước nầy chấn hưng Phật pháp, Ngài liền đến dự trong hội ấy. Thấy Ngài ứng đối mẫn tiệp, ngôn ngữ hợp lý, Tổ độ cho xuất gia. Sau khi đắc pháp nơi Tổ Hiếp-Tôn-Giả, Ngài một lòng tinh tấn,lấy sự giáo hóa làm trọng trách. Đạo đức Ngài vang khắp, số chúng qui ngưỡng đến ngàn vạn, những người được quả thánh tới năm trăm vị. Về sau, Ngài đến nước Ba-La-Nại có một vị trưởng-giả vào hội. Ngài hỏi đồ chúng:

– Các ngươi có biết người mới vào đây chăng? Xưa Phật huyền ký rằng: . Mã-Minh nghe Ngài nói trúng tên mình thì thầm khen, bước ra đảnh lễ Ngài và hỏi:

– Tôi muốn biết Phật, thế nào là Phật? –Ngài đáp: – Ông muốn biết Phật, chẳng biết ấy là phải. – Đã chẳng biết Phật thì đâu biết là phải? – Ông đã chẳng biết Phật, tại sao biết chẳng phải? – Đây thật là nghĩa cưa. – Đó là nghĩa cây. Ông nói nghĩa cưa là thế nào? – Tôi cùng thầy phân ra bằng nhau. Nghĩa cây của thầy nói là sao? – Ngươi bị ta xẻ

Mã-Minh liền ngộ được thắng nghĩa của Ngài, vui thích cầu xin xuất gia Ngài vì độ cho ông xuất gia và thọ giới cụ-túc

Số chúng được Ngài độ, có đến hai trăm vị chứng quả A-La-Hán, ngoài ra còn vô số người phát tâm qui kính Tam-bảo. Thấy cơ duyên giáo hóa sắp viên mãn, Ngài kêu Mã-Minh lại dặn dò:

-Ngươi nên chuyển bánh xe pháp làm vị Tổ thứ 12. Xưa đại pháp nhãn tạng của Như-Lai trao cho Tổ Ca-Diếp lần lượt truyền trao, nay ta trao cho ngươi, ngươi phải truyền tiếp. Nghe ta nói kệ:

Mê ngộ như ẩn hiển, Minh ám bất tương ly, Kim phó ẩn hiển pháp, Phi nhất diệc phi nhị.

Dịch: Mê ngộ như ẩn hiện, Tối sáng chẳng rời nhau, Nay trao pháp ẩn hiện, Chẳng một cũng chẳng hai.

Ngài truyền pháp cho Mã-Minh xong ,liền hiện thần biến , rồi lặng lẽ viên tịch. Mã-Minh và đồ chúng xây tháp trùm trên chơn thân thờ Ngài.

Cuối thế kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn. Bồ-Tát người nước Ba-La-Nại, hiệu Mã-Minh cũng có hiệu Công-Thắng. Vì khi Ngài sanh ra, các con ngựa đều ré lên, nên gọi là Mã-Minh. lại cũng có thuyết nói, mỗi khi Ngài thuyết pháp, các con ngựa trong chuồng ở gần đều lặng lẽ lóng nghe, khi thuyết xong chúng lại hý vang, nên gọi Ngài là Mã-Minh. Lúc chưa xuất gia, Ngài là một biện sĩ lỗi lạc, danh tiếng đồn đãi vang cả quốc nội và quốc ngoại. Sau khi được Tổ Phú-Na-Dạ-Xa độ cho xuất gia và truyền tâm ấn, Ngài lại nổi tiếng là một nhà thuyết pháp tài tình. Bao nhiêu tà thuyết ngoại đạo đều bị Ngài bẻ dẹp. Chính Ngài là người thắp sáng ngọn đuốc Đại-Thừa ở đầu thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn. Ngài đi giáo hóa đến nước Hoa-Thị nơi đây ngọn đuốc pháp của Ngài càng sáng rực hơn. Một hôm, có một ông già gầy ốm vào trong hội nghe pháp, bỗng nhiên ngã xuống đất. Ngài bảo chúng: -Đây là việc phi thường, sẽ có tướng lạ. Ông già kia liền biến mất. Chợt thấy dưới đất vọt lên một người con gái nhan sắc đẹp đẽ thân như màu vàng, dùng tay chỉ Ngài nói kệ: Khể thủ trưởng lão tôn, Đương thọ Như-Lai ký, Kim ư thử địa thượng, Nhi độ sanh tử chúng. Dịch: Cúi đầu lễ trưởng lão, Hiện nhận lời Phật ghi, Nay ở nơi xứ nầy, Độ chúng khỏi sanh tử. Nói kệ xong, trong chớp mắt không thấy cô nữa. Ngài bảo chúng: – Giây lát đây sẽ có ngoại đạo đến đấu sức với ta. Bỗng chốc gió mưa ầm ĩ xối xả kéo đến, khiến trời đất mịt mù. Ngài bảo: – Đây là báo hiệu ngoại đạo sẽ đến. Ta sẽ trừ chúng. Nói xong, Ngài chỉ tay lên hư không, hiện ra con rồng vàng to lớn, phấn khởi oai thần, khiến pháp ngoại đạo tan biến. Sau bảy ngày, có một con sâu nằm nép dưới tòa của Ngài. Ngài lấy tay nắm bắt con sâu ấy đưa cho đại chúng xem và nói: – Con sâu nầy là trá hình của ngoại đạo, đến ẩn núp nơi đây đặng nghe trộm pháp của ta. Nói xong, Ngài ném con sâu ra bảo: . Nhưng con sâu sợ hãi nằm im không động Ngài an ủi: – Ta không có hại ngươi. Ngươi hãy hiện lại bổn hình. Ngoại đạo liền hiện bổn hình đảnh lễ xin sám hối. Ngài hỏi: – Ngươi tên gì? Có bao nhiêu đồ đệ? Ngoại đạo thưa: – Con tên Ca-Tỳ-Ma-La, có đến ba ngàn đồ đệ. – Ngài hỏi: – Tột thần lực của ngươi biến hóa thế nào Ngoại đạo thưa: – Con hóa biển cả là việc chẳng khó. – Ngài hỏi: – Ngươi hóa tánh biển được chăng? Ngoại đạo mờ mịt không biết, thưa: – Lời nầy con không thể biết. Ngài vì giải thích: – Tánh biển là núi sông quả đất đều y cứ nơi đó mà lập, tam muội lục thông do đây phát hiện. Ngoại đạo nghe pháp ấy, liền khởi lòng tin mạnh mẽ, cùng ba ngàn đồ đệ đều cầu xin xuất gia. Ngài vì họ cho cạo đầu xuất gia, rồi triệu tập năm trăm vị thánh tăng đến làm lễ thọ giới cụ túc. Ngài bảo giới tử: – Các ngươi thú hướng Bồ-Đề sẽ thành đạo thánh. Ca-Tỳ-Ma-La quả nhiên được giới thể, phát hào quang sáng, có mùi hương lạ xông khắp. Một hôm, Ngài gọi Ma-La đến bảo: – Đại pháp nhãn tạng của Như-Lai, nay trao cho ngươi, truyền bá chớ để đoạn dứt. Nghe ta nói kệ:Ẩn hiển tức bổn pháp,Minh ám nguyên bất nhị,Kim phó ngộ liễu pháp,Phi thủ diệc phi khí. Dịch: Ẩn hiện vốn pháp này, Sáng tối nguyên không hai, Nay truyền pháp liểu ngộ, Không lấy cũng chẳng bỏ. Truyền pháp xong, Ngài vào chánh định hiện tướng viên tịch. Ca-Tỳ-Ma-La và đồ chúng đem chơn thể của Ngài để vào khám thờ. Ngài là vị Tổ thứ 12 của Thiền-Tông, cũng là một vị pháp sư làm sáng tỏ giáo pháp Đại-Thừa. Ngài sáng tác ba bộ luận: 1-Đại-Thừa Khởi Tín Luận.2.-Đại Tông địa huyền văn bổn luận.3.-Sự sư pháp ngũ thập tụng.Nổi tiếng nhất là bộ Đại-Thừa Khởi Tín Luận, đến hiện giờ những nước Phật-giáo Đại-Thừa vẫn truyền dạy bộ luận nầy. ”

Add Comment