Luật học tinh yếu – Viện nghiên cứu Phật học

Phụ lục 1
GIỚI BẢN CỦA ĐẠI TỲ-KHEO THUỘC LUẬT MA-HA-TĂNG-KỲ
(Đ 22, tr. 549A)
Tam Tạng Phật-đà-bạt-đà-la (Buddha-bhadra) người Thiên Trúc dịch (từ Phạn sang Hán) vào đời Đông Tấn (415-419). Thích Phước Sơn dịch từ Hán sang Việt.
Sáu pháp cần ghi nhớ:
Phải biết số ngày trong tháng, như ngày mồng một, mồng hai, cho đến ngày 14, 15, hoặc tháng đủ hay tháng thiếu, đều phải biết.
Sáng sớm phải tính toán việc thí thực: “Nếu hôm nay được thức ăn thì ta nên cúng dường cho thầy A; nếu thầy A không bằng lòng nhận thì ta sẽ ăn” (nói 3 lần như vậy).
Hằng ngày phải ghi nhớ về số hạ lạp của mình là bao nhiêu.
Phải ghi nhớ số y mà mình phải gìn giữ và số y mà mình đã tịnh thí.
Phải nhớ là không được ăn với một chúng riêng (một nhóm người riêng ngoài chúng Tăng).
Phải nhớ là mình có bệnh hay không có bệnh.
Vị Yết-ma bắt đầu nói:
– Xin Đại đức Tăng lắng nghe! Một tháng của mùa Đông đã trôi qua, thiếu một đêm, nhưng thừa một đêm đối với 3 tháng còn lại. Sự già chết đã đến gần, Phật pháp sắp hủy diệt. Các Đại đức vì sự đạt đạo cần phải một lòng tinh tấn. Vì sao vậy? Vì chư Phật nhờ một lòng tinh tấn mà đạt được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, huống gì là các pháp trợ đạo khác.
Những người chưa thọ giới Cụ túc đã ra rồi, vậy Tăng nay hội họp trước hết là để làm gì?
– (Một người đáp:) Để Bố-tát tụng giới.
Các Đại đức nào không đến thì Tỳ-kheo (nhận dục của họ) hãy trình bày sự gởi dục và thanh tịnh (của họ với đại chúng).
Có ai nhận sự chúc thỉnh của Tỳ-kheo-ni không?
(Nếu không thì đáp): Không có Tỳ-kheo-ni chúc thỉnh.
Chắp đôi bàn tay lại,
Đảnh lễ đức Thế Tôn
Giờ tôi sắp tụng giới,
Tăng hãy lắng lòng nghe.
Dù cho phạm tội nhỏ,
Phải cực kỳ lo sợ.
(549b) Có tội quyết sám hối,
Về sau đừng tái phạm.
Tâm như ngựa ruổi dong,
Phóng dật khó kiềm chế.
Phật dạy giữ giới hạnh,
Như nắm dây cương chắc.
Lời này từ kim khẩu,
Người thiện cần phải tin.
Lòng tin như ngựa thuần,
Phá được quân phiền não.
Nếu ai chẳng vâng lời,
Cũng không ưa thích giới.
Người ấy như ngựa chứng,
Chết trong quân phiền não.
Người giữ giới kiên cố,
Như trâu mao giữ đuôi.
Cột tâm không phóng dật,
Như khỉ bị xích xiềng.
Ngày đêm thường tinh tấn,
Cầu trí huệ chân thật,
Thì đời sống người này,
Sống trong sự thanh tịnh.
Xin Đại đức Tăng lắng nghe! Hôm nay là ngày rằm, Bố-tát tụng giới. Nếu thời gian của Tăng đã đến, thì Tăng hãy nhất tâm lắng nghe, cùng nhau Bố-tát tụng giới. Đây là lời tác bạch.
Thưa các Đại đức! Hôm nay là ngày Bố-tát tụng giới. Tăng hãy nhất tâm lắng nghe. Nếu ai có tội thì phải phát lồ, không có tội thì im lặng. Vì im lặng mà biết các Đại đức thanh tịnh; như một Tỳ-kheo được ai hỏi điều gì thì phải như thật trả lời. Cũng vậy, Tỳ-kheo nào ở trong chúng sau khi được hỏi ba lần, nhớ biết mình có tội mà không phát lồ thì phạm tội cố ý vọng ngữ. Thưa các Đại đức! Phật dạy, cố ý vọng ngữ là pháp chướng đạo. Thế nên, Tỳ-kheo nào muốn được thanh tịnh thì khi nhớ mình có tội cần phải phát lồ. Vì phát lồ thì an ổn, không phát lồ thì tội càng thêm nặng.
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong bài tựa của giới kinh, giờ xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (hỏi ba lần như vậy).
Vì các Đại đức trong đây thanh tịnh nên im lặng, việc này tôi ghi nhận như vậy.
GIỚI BA-LA-DI
Thưa các Đại đức, đây là 4 giới Ba-la-di cứ mỗi nửa tháng đọc một lần vào dịp tụng giới.
1. Nếu Tỳ-kheo đã thọ giới Cụ túc ở giữa chúng Tăng hòa hợp, không trả giới, giới sa sút, không rời khỏi Tăng đoàn mà hành dâm với người khác, thậm chí với cả loài súc sinh, thì Tỳ-kheo ấy phạm tội Ba-la-di, không được sống chung (với Tăng chúng).
(549c) Bấy giờ Phật an trú tại thành Tỳ-xá-li (Vesali), nhằm ngày 27 tháng 11 của mùa Đông, năm thứ năm sau khi thành Phật. Sau bữa cơm, Ngài ngồi quay mặt về hướng Đông, lúc bóng xế độ một người rưỡi, vì Trưởng lão Da-xá con của Ca-lan-đà (Yasa-Kalandaka-putta) mà chế ra giới này.
Những gì Phật đã chế thì phải tùy thuận chấp hành. Đó gọi là pháp tùy thuận.
2. Nếu Tỳ-kheo lấy trộm vật của người khác trong thôn xóm hay chỗ đất trống, rồi tùy theo vật lấy trộm mà nhà vua hoặc bắt, hoặc giết, hoặc trói, hoặc trục xuất, khiển trách: “Ôi, kẻ nam tử! Ngươi là quân trộm cướp, là kẻ ngu si”, thì Tỳ-kheo ăn trộm ấy phạm tội Ba-la-di, không được sống chung với Tăng chúng.
Bấy giờ Phật an trú tại thành Vương Xá, vào ngày mồng mười tháng mười của mùa Đông, năm thứ sáu sau khi thành đạo. Sau bữa ăn, Ngài ngồi quay mặt về hướng Đông, lúc bóng chiều độ một người rưỡi, vì Trưởng lão Đạt-nị-già (Dhaniya) con của người thợ gốm – có việc liên quan đến vua Bình-sa (Bimbisara) và Tỳ-kheo mặc y phấn tảo – mà chế ra giới này. Những gì Phật đã chế thì phải tùy thuận chấp hành. Đó gọi là pháp tùy thuận.
3. Nếu Tỳ-kheo tự tay mình giết người, hoặc đi tìm dao đưa cho người ta tự sát, khuyến khích chết, ca ngợi sự chết, nói: “Ôi! Làm người sống mà khốn khổ thì thà chết còn tốt hơn”, trong tâm suy nghĩ tìm đủ mọi cách ca ngợi rằng chết là khoái trá, nhân đó mà người kia chết chứ không có lý do nào khác, thì Tỳ-kheo ấy phạm tội Ba-la-di, không được sống chung với Tăng chúng.
Bấy giờ, Phật an trú tại thành Tỳ-xá-li (Vesali), vào ngày 24 tháng 10 của mùa Đông, năm thứ sáu sau khi thành Phật. Trước bữa ăn, Ngài ngồi quay mặt về hướng Bắc, lúc bóng mặt trời độ một người rưỡi, vì các Tỳ-kheo nuôi bệnh liên quan đến việc Lộc Trượng (Miga-Dandika) ngoại đạo (sát hại các Tỳ-kheo) mà chế ra giới này. Những gì Phật đã chế thì phải tùy thuận chấp hành. Đó gọi là pháp tùy thuận.
4. Nếu Tỳ-kheo chưa biết, chưa thấy mà tự xưng rằng: “Tôi đã được thánh pháp hơn người, có tri kiến thù thắng, tôi biết như vậy, thấy như vậy”, sau đó, hoặc bị kiểm tra, hoặc không bị kiểm tra về việc phạm tội, mà vì muốn mình thanh tịnh nên nói như sau: “Thưa Trưởng lão, tôi không biết mà nói rằng biêt, không thấy mà nói rằng thấy, đó là những lời hư dối không thật”, thì Tỳ-kheo này phạm tội Ba-la-di, không được sống chung với Tăng chúng, trừ Tăng thượng mạn.
Bấy giờ, Phật an trú tại thành Xá Vệ (Sàvatthi), vào ngày 13 tháng 11 của mùa Đông, năm thứ sáu sau khi thành Phật. Sau bữa ăn, Ngài ngồi quay mặt về hướng Đông, lúc bóng chiều độ 3 người rưỡi, vì các Tỳ-kheo ở thôn xóm và các Tỳ-kheo tăng thượng mạn mà chế ra giới này. Những gì Phật đã chế thì phải tùy thuận chấp hành. Đó gọi là pháp tùy thuận.
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong 4 giới Ba-la-di, giờ đây xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần)
Vì các Đại đức trong đây thanh tịnh nên im lặng, tôi ghi nhận việc này như vậy.
Thưa các Đại đức, sau đây là 13 giới Tăng-già-bà-thi-sa (Sanghadisesa), cứ mỗi nửa tháng, nửa tháng đọc lại một lần vào dịp tụng giới.
1. Nếu Tỳ-kheo cố ý làm xuất tinh – ngoại trừ trong giấc mộng – thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
2. Nếu Tỳ-kheo, bị tâm dâm dục kích thích, bèn dùng thân mình cọ xát với thân người nữ, hoặc nắm tay, hoặc nắm tóc, hoặc nắm các bộ phận khác nơi cơ thể của họ cọ xát để tìm lạc thú, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
3. Nếu Tỳ-kheo bị tâm dâm dục kích thích, nên nói với người nữ bằng những lời bẩn thỉu, bảo họ tùy thuận hành dâm với mình như bọn nam nữ trẻ tuổi, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
4. Nếu Tỳ-kheo, vì dục tâm kích thích, ở trước người nữ khen ngợi việc họ tự hiến thân cho mình, nói rằng: “Này chị (hay em), nếu chị hiến dâng sự dâm dục cho vị Sa-môn giữ giới thanh tịnh, hành thiện pháp, tu phạm hạnh như tôi, đó là sự dâng hiến bậc nhất”, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
5. Nếu Tỳ-kheo nhận làm sứ giả để tác hợp cho nam nữ thành vợ chồng, hay tư thông với nhau trong chốc lát, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
6. Nếu Tỳ-kheo tự đi xin vật liệu về làm phòng, không có thân chủ giúp đỡ thì phải trù tính làm phòng chiều dài 12 gang tay Phật, chiều rộng 7 gang tay Phật. Đồng thời phải mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ làm phòng, nơi ấy không có tai nạn, không có phương hại. Nếu Tỳ-kheo tự đi xin vật liệu về làm phòng, không có thân chủ giúp đỡ, mà làm chỗ có tai nạn, có phương hại, cũng không mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ để làm phòng, lại làm quá quy định, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
7. Nếu Tỳ-kheo muốn làm phòng lớn có thân chủ giúp đỡ, cũng phải dẫn các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ để làm phòng, nơi ấy không có tai nạn, không có phương hại. Nếu Tỳ-kheo làm phòng lớn có thân chủ giúp đỡ mà làm ở chỗ có tai nạn, có phương hại, cũng không mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ làm phòng, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
8. Nếu Tỳ-kheo vì tức giận không vui mà vu khống Tỳ-kheo thanh tịnh vô tội là phạm tội Ba-la-di một cách vô căn cứ, muốn phá hoại hạnh thanh tịnh của Tỳ-kheo ấy, rồi sau đó hoặc bị kiểm tra, hoặc không bị kiểm tra, Tỳ-kheo này bèn nói rằng: “Việc ấy không có căn cứ, vì tức giận nên tôi nói (như vậy)”, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
9. Nếu Tỳ-kheo vì tức giận không vui, rồi dùng một việc nhỏ thuộc lĩnh vực khác không phải Ba-la-di để vu cáo Tỳ-kheo khác phạm tội Ba-la-di, nhằm phá hoại phạm hạnh của vị ấy, rồi sau đó, hoặc bị kiểm tra, hoặc không bị kiểm tra, bèn nói: “Vì tức giận nên tôi đem một việc nhỏ thuộc lĩnh vực khác để vu cáo”, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
10. Nếu Tỳ-kheo vì muốn phá sự hòa hợp của Tăng, nên cố gắng tìm mọi cách để phá việc của Tăng, gây nên tranh chấp lẫn nhau, thì các Tỳ-kheo nên can gián rằng: “Trưởng lão đừng vì mục đích phá sự hòa hợp của Tăng mà tìm đủ mọi cách để gây ra tranh chấp lẫn nhau. Trưởng lão nên hợp tác với Tăng (cùng làm việc với Tăng). Vì sao vậy? Vì Tăng có hòa hợp, hoan hỷ không tranh chấp, giống như nước hòa với sữa, cùng học một giáo pháp, điều gì đúng pháp thì bảo là đúng pháp một cách rõ ràng, thì mới sống an lạc”. Khi can gián như vậy mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phải can gián đến lần thứ hai, thứ ba. Bấy giờ bỏ thì tốt, nếu không bỏ, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
11. Nếu một, hai, hoặc nhiều Tỳ-kheo đồng ý tương trợ Tỳ-kheo khác, cùng nói, cùng ý kiến muốn phá sự hòa hợp của chúng Tăng, lúc ấy có các Tỳ-kheo can gián, rồi vị Tỳ-kheo đồng lõa này nói: “Trưởng lão, đừng nói việc tốt xấu của Tỳ-kheo ấy. Vì sao vậy? Vì vị ấy là Tỳ-kheo nói đúng pháp, nói đúng luật. Những gì vị ấy thấy và nói ra đều có thể chấp nhận được. Chúng tôi cũng có thể chấp nhận. Vị Tỳ-kheo ấy biết mới nói, chứ không phải không biết mà nói”, thì các Tỳ-kheo nên can gián rằng: “Trưởng lão đừng nói rằng vị Tỳ-kheo đó nói đúng pháp, nói đúng luật. Vì sao vậy? Vì vị này không phải là Tỳ-kheo nói đúng pháp, nói đúng luật. Này Trưởng lão, thầy đừng hỗ trợ việc phá Tăng mà phải vui vẻ hỗ trợ việc Tăng hòa hợp. Vì sao vậy? Vì Tăng có hòa hợp, hoan hỷ, không tranh chấp nhau, như nước hòa với sữa, cùng học một giáo pháp, điều gì đúng pháp thì bảo là đúng pháp một cách rõ ràng, thì mới sống an lạc”. Khi can gián như vậy mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì nên can gián đến lần thứ hai, thứ ba. Bấy giờ nếu bỏ việc ấy thì tốt, nếu không bỏ thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
12. Nếu có Tỳ-kheo nói năng ngang ngạnh, rồi được các Tỳ-kheo cùng sống chung trong giới pháp chỉ bảo đúng pháp, đúng luật mà lại ngoan cố nói rằng: “Trưởng lão, thầy đừng nói về việc tốt xấu của tôi. Tôi cũng không nói về việc tốt xấu của thầy”, thì các Tỳ-kheo nên can gián rằng: “Trưởng lão, khi các Tỳ-kheo cùng sống chung trong giáo pháp chỉ bảo đúng pháp, đúng luật, thì thầy không nên không công nhận, mà trái lại thầy cũng phải chỉ bảo các Tỳ-kheo khác đúng pháp, đúng luật. Vì sao vậy? Vì các đệ tử của đức Như Lai có chỉ bảo lẫn nhau, can gián lẫn nhau, cùng xuất tội cho nhau, thì thiện pháp mới tăng trưởng”. Khi can gián như vậy mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì nên can gián đến lần thứ hai, thứ ba. Bấy giờ, nếu bỏ việc ấy thì tốt; nếu không bỏ, thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
13. Nếu Tỳ-kheo sống nương tựa vào thành ấp xóm làng mà làm hoen ố nhà người ta, làm những việc xấu, làm hoen ố nhà người ta ai cũng thấy cũng nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy cũng nghe, thì các Tỳ-kheo nên can gián rằng: “Trưởng lão, thầy đã làm hoen ố nhà người ta, làm những việc xấu; làm hoen ố nhà người ta ai cũng thấy cũng nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy cũng nghe, thầy hãy đi đi, không nên ở đây nữa”. Nếu khi ấy Tỳ-kheo này nói: “Tăng thiên vị, thù hận, sợ hãi và ngu si. Vì sao vậy? Vì có các Tỳ-kheo đồng tội như vậy, mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi”, thì các Tỳ-kheo nên can gián rằng: “Này Trưởng lão, thầy đừng nói rằng: “Tăng thiên vị, thù hận, sợ hãi và ngu si. Có các Tỳ-kheo đồng tội như nhau mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi”. Vì sao vậy? Vì Tăng không thiên vị, thù hận, sợ hãi và ngu si. Này Trưởng lão, thầy đã làm hoen ố nhà người ta, làm những việc xấu, làm hoen ố nhà người ta ai cũng thấy cũng nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy cũng nghe. Thầy hãy đi đi, đừng ở đây nữa”. Khi can gián như vậy mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì can gián đến lần thứ hai, thứ ba. Bấy giờ, nếu bỏ việc ấy thì tốt, nếu không bỏ thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa.
Này các Đại đức, tôi đã tụng xong 13 pháp Tăng-già-bà-thi-sa. Chín pháp đầu hễ làm là phạm tội, còn bốn pháp sau phải đến ba lần can gián mà không bỏ mới có tội. Nếu Tỳ-kheo phạm một tội nào, thì tùy theo thời gian che giấu, (Tăng) nên cho hành pháp Ba-lợi-bà-sa (biệt trú). Khi hành pháp Ba-lợi-bà-sa xong, phải hành pháp Ma-na-đỏa (ý hỷ) sáu ngày, sáu đêm giữa Tăng. Khi hành pháp Ma-na-đỏa xong, phải xuất tội ở giữa 20 vị Tăng. Nếu Tăng không đủ 20 người, thì tội của Tỳ-kheo ấy không được giải trừ mà các Tỳ-kheo khác còn bị khiển trách. Việc đó theo nguyên tắc là như vậy.
Nay xin hỏi các Đại đức, ở trong đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần)
Vì các Đại đức ở trong đây thanh tịnh nên im lặng, tôi ghi nhận việc này là như vậy.
(Hết 13 việc)
Thưa các Đại đức, đây là hai pháp Bất định cứ mỗi nửa tháng, nửa tháng đọc một lần vào dịp tụng giới.
1. Nếu Tỳ-kheo ngồi một mình với người nữ ở chỗ che khuất, chỗ có thể hành dâm được, rồi một Ưu-bà-di đáng tin cậy trình bày lại chính xác một trong ba pháp: hoặc Ba-la-di, hoặc Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc Ba-dật-đề; đồng thời vị Tỳ-kheo ấy tự nói: “Tôi ngồi chỗ ấy”, thì Tăng nên căn cứ vào lời trình bày chính xác của Ưu-bà-di đáng tin cậy kia mà trừng trị vị Tỳ-kheo ấy một trong ba pháp: hoặc Ba-la-di, hoặc Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc Ba-dật-đề. Đây là pháp Bất định thứ nhất.
2. (551a) Nếu Tỳ-kheo ngồi một mình với người nữ ở chỗ trống trải, không thể hành dâm được, rồi có một Ưu-bà-di đáng tin cậy trình bày lại đúng sự thật một trong hai pháp: hoặc Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc Ba-dật-đề, đồng thời vị Tỳ-kheo ấy tự nói: “Tôi ngồi chỗ ấy”, thì Tăng nên tùy theo lời trình bày đúng sự thật của Ưu-bà-di đáng tin cậy ấy mà trị phạt thích đáng một trong hai pháp: hoặc Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc Ba-dật-đề. Đây là pháp Bất định thứ hai.
Này các Đại đức, tôi đã tụng xong hai pháp Bất định, giờ xin hỏi các Đại đức ở trong đây có thanh tịnh không? (3 lần)
Vì các Đại đức ở trong dây thanh tịnh nên im lặng, tôi ghi nhận việc này là như vậy.
(Hết hai pháp Bất định).
Thưa các Đại đức, đây là 30 pháp Ni-tát-kì-ba-dạ-đề cứ mỗi nửa tháng, nửa tháng đọc lại một lần vào dịp tụng giới:
1. Nếu thời gian sắm y đã hết, y Ca-thi-na cũng đã xả mà Tỳ-kheo nhận được y thừa (ngoài 3 cái pháp định) thì được phép cất giữ trong vòng 10 ngày. Nếu cất giữ quá thời gian ấy thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
2. Nếu thời gian sắm y đã hết, y Ca-thi-na cũng đã xả, mà Tỳ-kheo rời một trong 3 y ngủ tại chỗ khác, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề, ngoại trừ Tăng Yết-ma cho phép.
3. Nếu thời gian sắm y đã hết, y Ca-thi-na cũng đã xả, khi ấy được vải phi thời mà Tỳ-kheo cần dùng thì nên lấy, rồi tức tốc may thành y để mặc. Nếu chưa đủ mà có chỗ hy vọng (tìm được thêm) thì được phép cất trong vòng một tháng, để đợi cho đủ. Nếu quá thời gian ấy thì dù đủ hay không đủ đều phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
4. Nếu Tỳ-kheo lấy y của Tỳ-kheo-ni không phải thân quyến, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề, ngoại trừ trao đổi.
5. Nếu Tỳ-kheo sai Tỳ-kheo-ni không phải thân quyến giặt y cũ, hoặc nhuộm, hoặc đập giũ, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
6. Nếu Tỳ-kheo theo cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến xin y, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề, ngoại trừ trường hợp đặc biệt. Trường hợp đặc biệt là trường hợp bị mất y.
7. Nếu Tỳ-kheo bị mất y thì khi ấy được theo cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến xin y. Nếu họ cho một cách hào phóng thì được lấy tối đa là hai cái (y trên và y dưới). Nếu lấy quá giới hạn thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
8. Nếu cư sĩ hay vợ cư sĩ chuẩn bị giá tiền sắm y cúng cho Tỳ-kheo mỗ giáp, rồi tự nhủ: “Ta chuẩn bị số tiền như thế để mua y như thế cúng cho Tỳ-kheo mỗ giáp” mà không cho Tỳ-kheo ấy biết (551b), nhưng khi nghe được tin, Tỳ-kheo ấy bèn đến nhà cư sĩ khuyên: “Lành thay cư sĩ! Ông (bà) hãy dùng số tiền sắm y như thế mua chiếc y màu sắc như thế cho tôi”, thì khi được y, phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
9. Nếu cư sĩ, vợ cư sĩ vì Tỳ-kheo, mỗi người chuẩn bị một số tiền sắm y như thế, rồi bàn nhau: “Chúng ta chuẩn bị số tiền sắm y như thế để mua chiếc y như thế cho Tỳ-kheo mỗ giáp”, mà không cho Tỳ-kheo ấy biết (551b), nhưng khi nghe được tin, Tỳ-kheo ấy bèn đến nhà cư sĩ, khuyên: “Lành thay các cư sĩ! Mỗi người hãy chuẩn bị tiền sắm y như thế, rồi cùng chung lại mua một chiếc y màu sắc như thế cho tôi”, thì khi được y phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
10. Nếu vua hay đại thần sai sứ giả đem tiền sắm y đến cúng cho Tỳ-kheo, và nói: “Số tiền sắm y này là của vua, của đại thần (mỗ giáp) đưa đến cho Tôn giả, xin Tôn giả nhận cho”, thì bấy giờ, Tỳ-kheo nên nói: “Tôi không được nhận tiền sắm y. Nếu đưa y thích hợp thì tôi mới nhận được”. Rồi sứ giả hỏi: “Tôn giả có người giúp việc không?”, mà Tỳ-kheo thấy cần y, thì nên chỉ người làm vườn, hoặc Ưu-bà-tắc cho sứ giả, và nói: “Người đó thường hay giúp việc cho Tỳ-kheo”. Sứ giả khi ấy nên đến người đó khuyến dụ: “Lành thay vị chấp sự! Nhờ ông nhận số tiền sắm y này để mua y như thế cho Tỳ-kheo mỗ giáp. Khi nào Tỳ-kheo ấy đến lấy y, thì ông đưa giúp cho”. Gởi gắm xong, sứ giả nên trở lại chỗ Tỳ-kheo, nói: “Tôi đã khuyến dụ người giúp việc mà tôn giả đã chỉ sắm y giúp rồi, khi nào cần y, thì đến đó lấy”. Thế thì khi cần y, Tỳ-kheo nên đến chỗ người giúp việc nói: “Tôi cần y, tôi cần y”, lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế. Nếu được y thì tốt, nếu không được thì lần thứ tư, thứ năm, thứ sáu nên đến đứng im lặng trước người giúp việc. Nếu được thì tốt, nếu không được mà đến đòi quá giới hạn ấy, thì khi được y phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề. Trong trường hợp không lấy được, thì Tỳ-kheo hoặc tự đi, hoặc nhờ người khác đến chỗ người xuất tiền sắm y, nói: “Ông (bà) đã vì Tỳ-kheo mỗ giáp đưa tiền sắm y, nhưng chung cục Tỳ-kheo ấy không lấy được số tiền sắm y do ông cúng, vậy xin báo cho ông biết, đừng để mất tiền”. Vấn đề này nguyên tắc là như vậy. (hết 10 việc)
11. Nếu Tỳ-kheo dùng lông dê toàn màu đen làm phu cụ mới thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
12. Nếu Tỳ-kheo làm phu cụ mới thì nên dùng hai phần lông dê thuần màu đen, một phần màu trắng và một phần màu lẫn lộn. Nếu quá số phần ấy thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
13. Nếu Tỳ-kheo dùng tơ tằm trộn với lông dê thuần màu đen làm phu cụ mới thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
14. (551c) Nếu Tỳ-kheo làm phu cụ mới thì nên sử dụng đến 6 năm. Nếu phu cụ chưa đủ 6 năm mà bỏ, hoặc không bỏ, làm phu cụ mới thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề; ngoại trừ Tăng Yết-ma cho phép.
15. Nếu Tỳ-kheo làm phu cụ hay tọa cụ mới thì nên dùng một miếng phu cụ cũ chừng một gang tay Phật may chồng lên phu cụ mới để cho hoại sắc. Nếu không dùng một miếng cũ may chồng lên phu cụ hay tọa cụ mới thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
16. Nếu Tỳ-kheo đi đường được lông dê mà mình thấy cần, thì có thể lấy mang đi trong vòng 3 do tuần. Nếu mang đi quá giới hạn ấy, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
17. Nếu Tỳ-kheo sai Tỳ-kheo-ni không phải thân quyến giặt, nhuộm, chải lông dê, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
18. Nếu Tỳ-kheo tự tay cầm vàng, bạc, hoặc sai người khác cầm săm soi với tâm tham luyến, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
19. Nếu Tỳ-kheo mua bán các thứ hàng hóa thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
20. Nếu Tỳ-kheo mua bán đổi chác các loại vàng, bạc, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề. (Hết 20 giới).
21. Nếu Tỳ-kheo có bát thừa (ngoài cái pháp định) thì được cất trong 10 hôm. Nếu cất quá 10 hôm, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
22. Nếu Tỳ-kheo dùng bát chưa vá đủ năm chỗ, mà vì thích đẹp, xin bát mới, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề. Cái bát này phải xả giữa chúng Tăng. Rồi Tăng nên đem cái bát kém nhất đưa cho người ấy, nói: “Trưởng lão! Thầy phải sử dụng cái bát này cho đến khi vỡ”. Việc này nguyên tắc là như vậy.
23. Nếu Tỳ-kheo bị bệnh cần uống sữa chua, dầu, mật, đường phèn, sữa tươi và mỡ, thì nên nhận một lần để uống 7 ngày. Nếu quá 7 ngày mà những thứ còn thừa không bỏ, vẫn cứ uống, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
24. Nếu Tỳ-kheo cho y cho Tỳ-kheo khác, rồi sau đó tức giận không vui, hoặc tự mình, hoặc sai người đọat lại y ấy, thì khi được y, phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
25. Trong vòng một tháng cuối mùa xuân, Tỳ-kheo nên tìm vải may áo tắm mưa, rồi trong nửa tháng còn lại nên may thành áo để dùng. Nếu chưa đến thời gian đó mà đi tìm vải may áo tắm mưa rồi may thành áo để dùng, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
26. Nếu Tỳ-kheo tự đi xin chỉ sợi, rồi nhờ thợ dệt không phải bà con dệt thành vải, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
27. (552a) Nếu cư sĩ hay vợ cư sĩ sai thợ dệt dệt vải để may y cho Tỳ-kheo, nhưng Tỳ-kheo trước đó không được mời, mà vì thích đẹp, nên đến khuyên thợ dệt: “Lành thay cư sĩ! Tấm vải này dệt cho tôi đó. Ông nên dệt cho thật đẹp, dày, dài và rộng, rồi tôi sẽ trả công cho ông bằng tiền hoặc bằng thực phẩm”, thì khi nhận được vải, phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
28. Nếu còn 10 hôm nữa mới đến ngày Tự tứ, mà thí chủ cúng dường y cấp thời, thì Tỳ-kheo nào cần dùng được phép nhận, rồi cất cho đến thời gian của y. Nếu cất quá thời gian ấy thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề.
29. Nếu Tỳ-kheo sống tại A-luyện-nhã trong ba tháng hạ, chưa đến tháng cuối mùa hạ mà gặp những việc đáng nghi ngờ lo sợ thì có thể gởi một trong ba y tại nhà dân, sống cách ly với y trong 6 hôm. Nếu quá 6 hôm thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề; ngoại trừ Tăng Yết-ma cho phép.
30. Nếu Tỳ-kheo biết vật đó thí chủ định cúng cho Tăng, mà vận động họ cúng cho mình, thì phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề. (Hết 30 việc)
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong 30 pháp Ni-tát-kì-ba-dạ-đề, giờ xin hỏi các Đại đức ở trong đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần)
Vì các Đại đức ở trong đây thanh tịnh nên im lặng; tôi ghi nhận việc này như vậy.
Thưa các Đại đức! Đây là 92 pháp Ba-dạ-đề cứ mỗi nửa tháng, nửa tháng đọc lại một lần vào dịp tụng giới.
1. Nếu Tỳ-kheo biết mà cố ý nói dối thì phạm tội Ba-dạ-đề.
2. Nếu Tỳ-kheo đem chủng tộc tướng mạo của Tỳ-kheo khác ra châm chọc, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
3. Nếu Tỳ-kheo nói 2 lưỡi thì phạm tội Ba-dạ-đề.
4. Nếu Tỳ-kheo biết Tăng đã dập tắt sự tranh chấp đúng như pháp, như luật mà muốn làm phát sinh trở lại, nói: “Việc Yết-ma này chưa xong, phải làm lại”, làm như vậy là nhằm gây rối chứ không gì khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
5. Nếu Tỳ-kheo thuyết pháp cho người nữ quá 5, 6 lời, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ có người đàn ông trí thức tham dự.
6. Nếu Tỳ-kheo dạy người chưa thọ giới Cụ túc đọc những câu, những bài pháp, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
7. Nếu Tỳ-kheo nói với người chưa thọ giới Cụ túc rằng mình đã được pháp hơn người như sau: “Tôi biết như vậy, thấy như vậy”, thì dù nói thật cũng phạm tội Ba-dạ-đề.
8. Nếu Tỳ-kheo biết tội thô ác của Tỳ-kheo khác mà đem nói với người chưa thọ giới Cụ túc, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ Tăng Yết-ma cho phép.
9. (552b) Nếu Tỳ-kheo nào lúc đầu đã đồng ý đem vật dùng để chia cho Tăng cho người khác, nhưng sau đó ngăn cản, nói: “Trưởng lão, thầy có ý thiên vị nên đem vật của Tăng cho người ấy”, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
10. Nếu vào dịp tụng giới của mỗi nửa tháng mà Tỳ-kheo nào nói: “Trưởng lão, thầy tụng làm chi ba cái giới lặt vặt ấy khiến cho các Tỳ-kheo sinh ra nghi ngờ, hối hận!”, nói như thế là nhằm khinh chê giới luật chứ không gì khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề. (Hết 10 việc)
11. Nếu Tỳ-kheo hủy họai mầm sống của cây, phá hỏng chỗ ở của quỷ, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
12. Nếu Tỳ-kheo nói những vấn đề khác làm não loạn người khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
13. Nếu Tỳ-kheo chê trách chức sự của Tăng, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
14. Nếu Tỳ-kheo tự mình hay sai người khác đem bày biện giường nằm, ghế ngồi, mền gối ở chỗ đất trống nơi trú xứ của Tăng, rồi lúc ra đi không tự mình cất hay sai người đem cất, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
15. Nếu Tỳ-kheo tự mình hay sai người khác trải giường nệm trong phòng của chúng Tăng, rồi lúc ra đi không tự mình hay sai người khác đem cất, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
16. Nếu Tỳ-kheo vì tức giận không vui mà tự mình hay sai người lôi Tỳ-kheo khác ra khỏi phòng của Tăng, dù chỉ nói: “Ông hãy đi đi!”, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
17. Nếu Tỳ-kheo biết trong phòng của Tăng đã có Tỳ-kheo khác trải giường nệm trước rồi, mình đến sau cũng trải đồ đạc ra, với ý định làm nhiễu loạn, để người kia bỏ đi chứ không có gì khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
18. Nếu Tỳ-kheo đặt giường có chân nhọn trên lầu, trên gác của Tăng để ngồi, hoặc nằm, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
19. Nếu Tỳ-kheo biết nước có sinh trùng mà tự mình hoặc sai người đem tưới trên cỏ, trên đất, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
20. Nếu Tỳ-kheo tự kinh doanh làm phòng lớn có cửa lớn, cửa sổ, thì nên làm ở chỗ đất ít cỏ, rồi sai người lợp chừng 3 lớp là vừa. Nếu lợp quá 3 lớp, thì phạm tội Ba-dạ-đề. (hết 20 việc)
21. Nếu Tỳ-kheo nào không được Tăng sai mà tự đi giáo giới Tỳ-kheo-ni, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
22. Nếu Tỳ-kheo nào được Tăng sai đi giáo giới Tỳ-kheo-ni mà ở lại từ lúc mặt trời lặn cho đến trước bình minh hôm sau, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
23. Nếu Tỳ-kheo nào đến trú xứ của Ni giáo giới mà không bạch với thiện Tỳ-kheo, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ trường hợp đặc biệt. Trường hợp đặc biệt là khi bị bệnh.
24. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác: “Trưởng lão vì việc ăn uống mà giáo giới Tỳ-kheo-ni”, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
25. Nếu Tỳ-kheo ngồi với một Tỳ-kheo-ni ở chỗ trống vắng, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
26. (552c) Nếu Tỳ-kheo hẹn đi chung đường với Tỳ-kheo-ni, dù chỉ đi qua một làng, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
27. Nếu Tỳ-kheo hẹn đi chung thuyền với Tỳ-kheo-ni, ngược dòng hay xuôi dòng, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ đi đò ngang qua sông.
28. Nếu Tỳ-kheo cho y cho Tỳ-kheo-ni không phải thân quyến, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
29. Nếu Tỳ-kheo may y cho Tỳ-kheo-ni không phải thân quyến, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
30. Nếu Tỳ-kheo biết bữa ăn ấy do Tỳ-kheo-ni vận động mới có, mà ăn, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
31. Nếu gia đình nào chỉ cúng dường một bữa ăn mà Tỳ-kheo không bệnh ăn hơn một bữa, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
32. Nếu Tỳ-kheo ăn nhiều chỗ (trong ngày), thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ khi có bệnh, khi sắm y.
33. Nếu Tỳ-kheo ăn no rồi, rời khỏi chỗ ngồi, không làm phép tàn thực mà ăn lại, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
34. Nếu Tỳ-kheo nào biết vị Tỳ-kheo khác ăn no rồi, rời khỏi chỗ ngồi, không làm phép tàn thực, mà muốn làm não loạn, nên mời: “Trưởng lão, hãy ăn món này”, rồi vị ấy ăn, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
35. Nếu thức ăn người ta không cho, thì Tỳ-kheo không được lấy bỏ vào miệng. Nếu bỏ vào miệng, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ nước và tăm xỉa răng.
36. Nếu Tỳ-kheo ăn phi thời, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
37. Nếu Tỳ-kheo để dành thức ăn mà ăn, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
38. Nếu Tỳ-kheo đến nhà bạch y, mà họ cúng dường bánh bún một cách hào phóng, thì nên nhận chừng ba bát, rồi ra ngoài cùng ăn với Tỳ-kheo không bệnh. Nếu nhận quá số ấy và không cùng ăn với người khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
39. Nếu Tỳ-kheo không bệnh mà vì muốn sướng thân đi xin các thức mỹ vị như sữa tươi, sữa chua, sữa đóng váng, dầu, mật, đường phèn, cá, thịt để ăn, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
40. Nếu Tỳ-kheo ăn với một nhóm riêng, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ khi bệnh, khi sắm y, khi đi đường, khi ở trên thuyền, khi đại chúng đại hội, khi ngoại đạo bố thí ẩm thực. (Hết 40 việc).
41. Nếu Tỳ-kheo không bệnh mà vì bản thân, hoặc tự mình, hoặc sai người đốt cỏ, cây, phân bò, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ có lý do chính đáng.
42. Nếu Tỳ-kheo ngủ chung một phòng với người chưa thọ giới Cụ túc quá 3 đêm, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
43. Nếu Tỳ-kheo gởi dục yết ma rồi, sau đó tức giận không vui, nói thế này: “Tôi không gởi dục (về việc) không tốt ấy. Pháp Yết-ma đó không thành tựu. Tôi không gởi dục trong trường hợp này”, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
44. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác: “Trưởng lão, thầy đi với tôi vào xóm làng, tới nhà kia, rồi tôi sẽ đưa hoặc bảo người khác đưa thức ăn cho thầy”, nhưng sau đó muốn đuổi người ấy đi, bèn nói: “Ông hãy đi đi, tôi ngồi với ông không vui, tôi ngồi một mình vui hơn”, làm như thế (là để cho người kia mất ăn chứ không có gì khác), thì phạm tội Ba-dạ-đề.
45. Nếu Tỳ-kheo nói thế này: “Trưởng lão, tôi biết đức Thế Tôn nói về pháp chướng ngại đạo, nhưng khi thực hành pháp ấy thì không có gì là chướng ngại hết”, thì các Tỳ-kheo nên khuyên can rằng: “Trưởng lão! Thầy đừng hủy báng đức Thế Tôn. Hủy báng đức Thế Tôn là không tốt. Đức Thế Tôn không nói như thế. Đức Thế Tôn nói pháp chướng ngại đạo thì quả thực là chướng ngại đạo. Thầy hãy bỏ việc ác này đi”. Khi khuyên can như thế mà vẫn kiên trì không bỏ thì nên khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba (cho bỏ việc ấy). Nếu bỏ thì tốt, nếu không bỏ, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Tăng nên làm Yết-ma cử tội Tỳ-kheo ấy.
46. Nếu Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo khác không bỏ ác kiến, Tăng đã làm Yết-ma cử tội đúng pháp, đúng luật, nhưng vị ấy chưa làm đúng pháp, đúng luật mà cùng ăn chung, ở chung một phòng, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
47. Nếu Sa-di nói thế này: “Đức Như Lai nói rằng dâm dục là pháp chướng ngại đạo, nhưng tôi biết rằng khi thực hiện dâm dục không phải là chướng ngại đạo”, thì các Tỳ-kheo nên khuyên can rằng: “Này Sa-di kia, ngươi chớ hủy báng Thế Tôn. Hủy báng Thế Tôn là không tốt. Đức Thế Tôn không nói như thế. Đức Thế Tôn nói rằng dâm dục quả thật là pháp chướng đạo. Ngươi hãy bỏ việc ác này đi”. Khi khuyên can như vậy mà kiên trì không bỏ thì nên khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba. Nếu bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phải đuổi đi, nói: “Từ nay về sau, ngươi không được nói rằng Phật là thầy của tôi, cũng không được ngủ với Tỳ-kheo 3 đêm. Ngươi đi đi, không được ở đây nữa”. Nếu Tỳ-kheo biết Sa di không bỏ ác kiến, bị đuổi đi, chưa làm đúng pháp mà dụ dỗ đem về nuôi dưỡng, cùng ăn chung, sống chung, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
48. Nếu Tỳ-kheo được y mới thì nên dùng 3 màu: xanh, đen, mộc lan, hoặc một trong 3 màu nhuộm cho hoại sắc. Nếu không làm cho hoại sắc mà mặc, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
49. Nếu Tỳ-kheo tự mình, hoặc bảo người lấy những vật báu hoặc những bảo vật có giá trị tại trú xứ của Tăng, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ tự lấy cất đợi chủ đến tìm mà trả lại.
50. Nếu Tỳ-kheo chưa đủ nửa tháng mà tắm một lần thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ trong hai tháng rưỡi đặc biệt, tức một tháng rưỡi cuối mùa xuân, một tháng đầu mùa hạ, và những khi trời nóng, khi bệnh, khi gió, khi mưa, khi làm việc và khi đi đường. (Hết 50 việc)
51. (553a) Nếu Tỳ-kheo biết nước có sinh trùng mà uống thì phạm tội Ba-dạ-đề.
52. Nếu Tỳ-kheo tự tay đưa thức ăn cho nam nữ đạo sĩ lõa thể thì phạm tội Ba-dạ-đề.
53. Nếu Tỳ-kheo biết nơi đó là chỗ để hành dâm của nhà mình thọ trai, mà ngồi, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
54. Nếu Tỳ-kheo biết nơi đó là chỗ kín đáo của nhà mình thọ trai, mà ngồi, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
55. Nếu Tỳ-kheo xem quân sĩ xuất trận thì phạm tội Ba-dạ-đề.
56. Nếu Tỳ-kheo có lý do chính đáng thì được đến ở lại trong quân trại 3 đêm. Nếu ở quá 3 đêm thì phạm tội Ba-dạ-đề.
57. Nếu Tỳ-kheo có lý do chính đáng thì được ở lại trong quân trại 3 đêm. Nhưng nếu xem quân sĩ xuất trận, phất cờ, nghinh chiến, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
58. Nếu Tỳ-kheo giận dữ không vui, đánh Tỳ-kheo khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
59. Nếu Tỳ-kheo tức giận không vui dơ tay dọa đánh Tỳ-kheo khác thì phạm tội Ba-dạ-đề.
60. Nếu Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo khác phạm tội thô ác mà che giấu, thì phạm tội Ba-dạ-đề. (Hết 60 việc).
61. Nếu Tỳ-kheo cố ý sát hại mạng sống của súc sinh thì phạm tội Ba-dạ-đề.
62. Nếu Tỳ-kheo cố ý làm cho Tỳ-kheo khác sinh hoang mang, nghi ngờ, không vui trong giây lát, nhằm để chơi đùa chứ không có gì khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
63. Nếu Tỳ-kheo đã tịnh thí y cho 5 chúng (xuất gia), sau đó còn lấy dùng, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
64. Nếu Tỳ-kheo vì chơi đùa mà tự mình hoặc sai người đem giấu y, bát, tọa cụ, ống đựng kim của Tỳ-kheo khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
65. Nếu Tỳ-kheo làm cho Tỳ-kheo khác sợ hãi, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
66. Nếu Tỳ-kheo đùa giỡn trong nước, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
67. Nếu Tỳ-kheo dùng tay chỉ chỏ nhau, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
68. Nếu Tỳ-kheo hẹn ước cùng đi chung đường với người nữ, dù chỉ đi qua một làng, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
69. Nếu Tỳ-kheo cùng ngủ chung một nhà với người nữ, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
70. Nếu Tỳ-kheo ngồi một mình với người nữ ở chỗ kín đáo, thì phạm tội Ba-dạ-đề. (hết 70 việc).
71. Nếu Tỳ-kheo biết người kia chưa đủ 20 tuổi mà cho thọ giới Cụ túc, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Người ấy đã không được gọi là thọ giới Cụ túc, mà các Tỳ-kheo còn đáng bị khiển trách.
72. Nếu Tỳ-kheo biết những kẻ ấy là quân trộm cướp mà hẹn đi chung đường với chúng, dù chỉ đi qua một làng, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
73. (553c) Nếu Tỳ-kheo tự tay đào đất, hoặc chỉ bảo người khác, nói: “Đào chỗ đất này”, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
74. Nếu có thí chủ xin cúng dường cho Tỳ-kheo 4 tháng thì Tỳ-kheo được nhận. Nhưng nếu nhận quá thời gian ấy, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ họ mời lại, hay mời lâu dài.
75. Nếu Tỳ-kheo được các Tỳ-kheo khuyên: “Trưởng lão, thầy phải học, đừng phạm 5 thiên tội”, mà nói: “Tôi không nghe lời thầy. Nếu có vị Trưởng lão nào các căn tịch tịnh, nghe nhiều, giữ giới, hiểu rộng thì tôi sẽ theo học hỏi, và vị ấy có chỉ bảo điều gì thì tôi sẽ tuân hành”, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ trường hợp đặc biệt là khi vị Tỳ-kheo ấy muốn được lợi ích của chánh pháp và muốn hỏi Tỳ-kheo khác.
76. Nếu Tỳ-kheo uống các thứ rượu thì phạm tội Ba-dạ-đề.
77. Nếu Tỳ-kheo khinh thường Tỳ-kheo khác thì phạm tội Ba-dạ-đề.
78. Khi các Tỳ-kheo tranh cãi nhau mà Tỳ-kheo nào đứng im lặng lắng nghe, với suy nghĩ: “Họ có nói điều gì ta hãy ghi nhớ”, chỉ vì mục đích như thế chứ không có gì khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
79. Khi Tăng họp giải quyết công việc mà Tỳ-kheo nào không gởi dục, đứng dậy bỏ đi không bạch với Tăng thì phạm tội Ba-dạ-đề.
80. Nếu Tỳ-kheo ở nơi A-luyện-nhã đi vào thôn xóm lúc phi thời mà không bạch với thiện Tỳ-kheo thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ có việc gấp. (Hết 80 việc)
81. Nếu Tỳ-kheo ăn ở cùng một chỗ với Tỳ-kheo khác mà trước bữa ăn, sau bữa ăn không bạch với thiện Tỳ-kheo, đi đến nơi khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề; ngoại trừ thời gian của y.
82. Nếu Tỳ-kheo đi vào cung vua khi phu nhân (của vua) chưa cất bảo vật, dù chỉ bước vào khỏi cửa, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
83. Nếu Tỳ-kheo đục khoét xương, răng, sừng làm ống đựng kim thì phải phá bỏ rồi sám hối tội Ba-dạ-đề.
84. Nếu Tỳ-kheo làm chân giường thì phải làm cao chừng 8 ngón tay Phật, trừ chỗ tra vào thành giường. Nếu cao quá mức ấy thì phải cắt bỏ (rồi sám hối) tội Ba-dạ-đề.
85. Nếu Tỳ-kheo dùng bông vải làm nệm để ngồi hoặc nằm, thì phải moi bỏ rồi sám hối tội Ba-dạ-đề.
86. Nếu Tỳ-kheo làm tọa cụ thì phải làm đúng mức quy định: chiều dài 2 gang tay Phật, chiều rộng một gang tay rưỡi, rồi may thêm (mỗi chiều) một gang tay rưỡi. Nếu làm quá mức quy định thì phải cắt bỏ rồi sám hối tội Ba-dạ-đề.
87. Nếu Tỳ-kheo may áo che ghẻ thì phải may chiều dài 4 gang tay Phật, chiều rộng 2 gang tay. (554a) Nếu quá mức quy định thì phải cắt bỏ rồi sám hối tội Ba-dạ-đề.
88. Nếu Tỳ-kheo may áo tắm mưa thì phải may chiều dài 6 gang tay Phật, chiều rộng 2 gang tay rưỡi. Nếu may quá giới hạn thì phải cắt bỏ rồi sám hối tội Ba-dạ-đề.
89. Nếu Tỳ-kheo may y thì phải may theo kích thước y của đức Như Lai. Y của Như Lai chiều dài 9 gang tay Phật, chiều rộng 6 gang tay Phật. Nếu may quá giới hạn ấy thì phạm tội Ba-dạ-đề.
90. Nếu Tỳ-kheo vì tức giận không vui mà vô cớ vu khống Tỳ-kheo khác phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
91. Nếu Tỳ-kheo biết vật đó thí chủ định cúng cho Tăng, mà vận động cúng cho người khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
92. Khi Tăng tụng giới vào mỗi nửa tháng mà Tỳ-kheo nào nói rằng: “Trưởng lão, nay tôi mới biết pháp ấy được đưa vào giới kinh để đọc vào dịp tụng giới của mỗi nửa tháng”, nhưng các Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo ấy không những đã ngồi trong chỗ tụng giới 2, 3 lần mà còn nhiều hơn nữa, thì Tỳ-kheo ấy không thể lấy lý do không biết để mà chạy tội. Khi ấy Tăng phải tùy theo vị ấy phạm tội nào mà trị tội ấy đúng pháp, đồng thời nên khiển trách: “Trưởng lão, thầy đã để mất lợi ích. Khi tụng giới vào mỗi nửa tháng, thầy không tôn trọng, không chú tâm lắng tai nghe giới”. Khiển trách xong, Tỳ-kheo ấy phạm tội Ba-dạ-đề. (Hết 92 việc)
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong 92 pháp Ba-dạ-đề. Giờ xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần).
Vì các Đại đức trong đây thanh tịnh nên im lặng; việc này tôi ghi nhận như vậy.
Thưa các Đại đức, đây là 4 pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni cứ mỗi nửa tháng, nửa tháng đọc một lần vào dịp tụng giới.
1. Nếu Tỳ-kheo ở A-luyện-nhã không có bệnh, không thông tri trước (với người bên ngoài), người bên ngoài không hay biết mà ở ngay trong trú xứ nhận lấy thức ăn, rồi nhai, hoặc nuốt, thì phải đến Tỳ-kheo khác hối lỗi rằng: “Thưa Trưởng lão, tôi phạm tội đáng khiển trách”. Đây là cách hối quá.
2. Nếu Tỳ-kheo không bệnh mà nhận lấy thức ăn của Tỳ-kheo-ni không phải bà con tại nhà bạch y, thì phải đến Tỳ-kheo khác sám hối rằng: “Thưa Trưởng lão, tôi phạm tội đáng khiển trách”. Đây là cách hối quá.
3. Nếu Tỳ-kheo được bạch y mời đến nhà thọ trai, mà khi ấy có Tỳ-kheo-ni đứng trước (bàn ăn) chỉ bảo (bạch y), nói: “Hãy bưng cơm cho Tỳ-kheo này, bưng canh cho Tỳ-kheo kia, hoặc dọn cá, dọn thịt v.v…”, thì các (554b) Tỳ-kheo nên nói với Tỳ-kheo-ni ấy rằng: “Này chị em, hãy đứng yên trong chốc lát, đợi các Tỳ-kheo ăn xong đã”. Nếu không có một Tỳ-kheo nào khiển trách Tỳ-kheo-ni ấy, thì các Tỳ-kheo phải đến Tỳ-kheo khác sám hối rằng: “Thưa Trưởng lão, tôi phạm tội đáng khiển trách”. Đây là cách hối quá.
4. Nếu có học gia nào Tăng đã làm pháp Yết-ma học gia, mà Tỳ-kheo nào không được mời trước lại đến đó tự tay nhận lấy thức ăn rồi nhai hoặc ăn, thì Tỳ-kheo ấy phải đến Tỳ-kheo khác sám hối rằng: “Thưa Trưởng lão, tôi phạm tội đáng khiển trách”. Đây là cách hối quá.
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong 4 pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni. Giờ xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần)
Vì các Đại đức trong đây thanh tịnh nên im lặng, việc này tôi ghi nhận như vậy.
Thưa các Đại đức, đây là các pháp chúng học cứ nửa tháng, nửa tháng đọc một lần vào dịp tụng giới.
Cần phải học: mặc nội y tề chỉnh.
Cần phải học: mặc 3 y tề chỉnh.
Cần phải học: khéo che thân kín đáo khi vào nhà bạch y.
Cần phải học: nhìn thẳng phía trước khi vào nhà bạch y.
Cần phải học: nói nhỏ nhẹ khi vào nhà bạch y.
Cần phải học: không được cười khi vào nhà bạch y.
Cần phải học: không được trùm đầu khi vào nhà bạch y.
Cần phải học: không được lật trái y khi vào nhà bạch y.
Cần phải học: không được đi nhón gót khi vào nhà bạch y.
Cần phải học: không được chống nạnh khi vào nhà bạch y. (10 việc)
Cần phải học: không được đi lắc lư cái thân khi vào nhà bạch y.
Cần phải học: không được lúc lắc cái đầu khi vào nhà bạch y.
Cần phải học: không được đánh đàng xa khi vào nhà bạch y.
Cần phải học: che thân kín đáo khi ngồi trong nhà bạch y.
Cần phải học: nhìn thẳng phía trước khi ngồi trong nhà bạch y.
Cần phải học: nói nhỏ nhẹ khi ngồi trong nhà bạch y.
Cần phải học: không được cười khi ngồi trong nhà bạch y.
Cần phải học: không được trùm đầu khi ngồi trong nhà bạch y.
(554c) Cần phải học: không được lật trái y khi ngồi trong nhà bạch y.
Cần phải học: không được ngồi bó gối trong nhà bạch y (20 việc).
Cần phải học: không được ngồi tréo chân trong nhà bạch y.
Cần phải học: không được ngồi chống nạnh trong nhà bạch y.
Cần phải học: không được múa máy tay chân khi ngồi trong nhà bạch y.
Cần phải học: chú tâm khi nhận thức ăn.
Cần phải học: ăn cơm và canh bằng nhau.
Cần phải học: không được moi xung quanh bát mà ăn.
Cần phải học: không được ngậm cơm búng má mà ăn.
Cần phải học: không được le lưỡi mà ăn.
Cần phải học: không được ăn cơm lớn miếng.
Cần phải học: không được hả miệng chờ cơm mà ăn. (30 việc)
Cần phải học: không được chọn thức ăn mà ăn.
Cần phải học: không được cắn một nửa món ăn mà ăn.
Cần phải học: không được ngậm cơm mà nói.
Cần phải học: không được dùng tay vét bát mà ăn.
Cần phải học: không được liếm tay mà ăn.
Cần phải học: không được mút ngón tay mà ăn.
Cần phải học: không được nhai thức ăn ra tiếng.
Cần phải học: không được hút thức ăn mà ăn.
Cần phải học: không được nuốt nguyên vẹn thức ăn.
Cần phải học: không được làm đổ tháo cơm trong khi ăn. (40 việc)
Cần phải học: không được vung tay khi ăn.
Cần phải học: không được ngó thức ăn trong bát của người bên cạnh với tâm so sánh.
Cần phải học: chú tâm nhìn vào bát mà ăn.
Cần phải học: khi không bệnh không được đòi thức ăn ngon cho mình.
Cần phải học: không được lấy cơm phủ trên canh để mong được thêm canh nữa.
Cần phải học: không được dùng tay dơ bẩn cầm bát đựng cơm.
Cần phải học: không được đem thức ăn thừa trong bát đổ xuống đất.
(555a) Cần phải học: không được đứng thuyết pháp cho người ngồi nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được ngồi thuyết pháp cho người nằm nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được ngồi dưới thấp thuyết pháp cho người ngồi trên giường cao nghe, ngoại trừ khi bệnh. (50 việc)
Cần phải học: không được thuyết pháp cho người mang giày da nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được thuyết pháp cho người mang guốc nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được thuyết pháp cho người trùm đầu nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được thuyết pháp cho người quấn đầu nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được thuyết pháp cho người ngồi chòm hỏm bó gối nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được thuyết pháp cho người đứng nhón gót nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được thuyết pháp cho người cầm đao nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được thuyết pháp cho người cầm cung tên nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được thuyết pháp cho người cầm gậy nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được thuyết pháp cho người cầm dù nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được đi sau thuyết pháp cho người đi trước mình nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được thuyết pháp cho người ngồi trên ngựa, trên xe nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: mình ở ngoài lề đường, không được thuyết pháp cho người ở giữa đường nghe, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được đại tiểu tiện và khạc nhổ trên cỏ tươi, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được đại tiểu tiện và khạc nhổ trong nước, ngoại trừ khi bệnh.
Cần phải học: không được đứng đại tiểu tiện, ngoại trừ khi bệnh.
(Hết 66 pháp chúng học)
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong các pháp chúng học, giờ xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần)
Vì các Đại đức trong đây thanh tịnh nên im lặng, việc này tôi ghi nhận như vậy.
Thưa các Đại đức, đây là 7 pháp Diệt tránh cứ mỗi nửa tháng, nửa tháng đọc một lần vào dịp tụng giới.
Tùy theo việc nào, tùy theo người nào nên cho pháp Tỳ-ni Hiện tiền, thì cho pháp Tỳ-ni Hiện tiền.
Người nào nên cho pháp Tỳ-ni Ức niệm, thì cho pháp Tỳ-ni Ức niệm.
(555b) Người nào nên cho pháp Tỳ-ni Bất si, thì cho pháp Tỳ-ni Bất si.
Người nào nên cho pháp Tỳ-ni Tự ngôn trị, thì cho pháp Tỳ-ni Tự ngôn trị.
Người nào nên cho pháp Tỳ-ni Mích tội tướng thì cho pháp Tỳ-ni Mích tội tướng.
Người nào nên cho pháp Tỳ-ni Đa nhơn mích tội tướng, thì cho pháp Tỳ-ni Đa nhơn mích tội tướng.
Người nào nên cho pháp Tỳ-ni Như thảo phú địa, thì cho pháp Tỳ-ni Như thảo phú địa.
(Hết 7 pháp Diệt tránh)
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong 7 pháp Diệt tránh, giờ xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần)
Vì các Đại đức trong đây thanh tịnh nên im lặng, việc này tôi ghi nhận như vậy.
Thưa các Đại đức, đây là pháp tùy thuận cứ mỗi nửa tháng, nửa tháng đọc một lần vào dịp tụng giới. Tùy thuận hành trì pháp này tức là tùy thuận hai bộ Tỳ-ni vậy.
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng xong pháp tùy thuận, giờ xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần)
Vì các Đại đức trong đây thanh tịnh nên im lặng, việc này tôi ghi nhận như vậy.
Thưa các Đại đức, tôi đã tụng bài tựa của giới kinh, đã tụng 4 pháp Ba-la-di, đã tụng 13 pháp Tăng-già-bà-thi-sa, đã tụng 2 pháp Bất định, đã tụng 30 pháp Ni-tát-kì-Ba-dạ-đề, đã tụng 92 pháp Ba-dạ-đề, đã tụng 4 pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni, đã tụng các pháp chúng học, đã tụng 7 pháp Diệt tránh, đã tụng pháp tùy thuận. Đó là giới luật của đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri được đưa vào trong giới kinh. Pháp này là pháp Tùy thuận, tất cả đều phải học, không được vi phạm.
Phật dạy (về 7 bài kệ của 7 đức Phật):
1. Đức Tỳ-bà-thi Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì chúng Tăng tịch tĩnh, mà nói giới tóm tắt như sau:
“Nhẫn nhục đạo bậc nhất,
Niết-bàn đích tối thượng.
Xuất gia não hại người,
Không đáng gọi Sa-môn”.
2. Đức Thi-khí Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì chúng Tăng tịch tĩnh mà nói giới tóm tắt như sau:
“Cũng như người sáng mắt,
Tránh được đường nguy hiểm.
Bậc thông minh trong đời,
Tránh xa mọi điều ác”.
3. Đức Tỳ-diệp-bà Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì chúng Tăng tịch tĩnh mà nói giới tóm tắt như sau:
“Không bới móc, tật đố,
Tuân hành các học giới,
Ăn uống có điều độ,
Thường ở chỗ thanh vắng.
Tâm tịnh vui tinh tấn,
Là lời chư Phật dạy”.
4. Đức Câu-lưu-tôn Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì chúng Tăng tịch tĩnh mà nói giới tóm tắt như sau:
“Tỳ-kheo vào xóm làng,
Như ong đi tìm hoa
Hút mật rồi bay đi,
Chẳng hại gì hương sắc.
Không phá hoại việc người,
Không xem làm hay không;
Chỉ xét hành vi mình,
Có tốt hay không tốt”.
5. Đức Câu-na-hàm-mâu-ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì chúng Tăng tịch tĩnh mà nói giới tóm tắt như sau:
“Muốn tâm mình tốt chớ buông lung,
Thiện pháp Thánh nhân luôn gắng học.
Những người trí tuệ tâm chuyên chú,
Phiền não ưu sầu đoạn tuyệt ngay”.
6. Đức Ca-diếp Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì chúng Tăng tịch tĩnh mà nói giới tóm tắt như sau:
“Chớ làm mọi điều ác,
Tuân hành các hạnh lành,
Giữ tâm chí trong sạch,
Là lời chư Phật dạy”.
7. Đức Thích-ca-mâu-ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì chúng Tăng tịch tĩnh mà nói giới tóm tắt như sau:
“Lành thay phòng hộ thân,
Khéo giữ gìn lời nói.
Lành thay phòng hộ tâm,
Tất cả đều khéo giữ.
Tỳ-kheo giữ tất cả,
Sẽ xa lìa thống khổ.
Tỳ-kheo giữ miệng ý,
Giữ thân không làm ác,
Ba nghiệp đều thanh tịnh,
Chắc chắn được Thánh quả.
Ai đánh mắng mình, không trả đũa.
Ai oán hận ta vẫn tự nhiên.
Với người sân hận, lòng thanh thản
Mặc ai làm ác, ta không làm.
Bảy đức Phật Thế Tôn,
Thường cứu độ thế gian,
(556a) Từng thuyết giới kinh này,
Giờ tôi đã tụng xong.
Chư Phật và đệ tử,
Đều tôn kính giới này.
Vừa tôn kính giới kinh,
Vừa kính trọng lẫn nhau,
Ai đầy đủ tàm quý,
Sẽ được đạo vô vi”.
Tôi đã tụng xong giới kinh. Tăng đã nhất tâm Bố-tát hoàn mãn. Sau đây là tóm tắt giới Ma-ha-tăng-kỳ:
“Giữ thân miệng trong sạch,
Nhiếp tâm luôn ghi nhớ.
Nghe nhiều trí huệ sinh,
Đều lấy giới làm gốc.
Giới là kho châu báu,
Cũng là bảy thánh tài.
Giới là vị thuyền trưởng,
Chèo qua biển sinh tử.
Giới là ao nước trong,
Tẩy rửa mọi phiền não.
Giới là thuật vô úy,
Tiêu trừ các độc hại.
Giới là người bạn lành,
Dắt mình qua nẻo ác.
Giới là vị cam lồ,
Chư Thánh đều nhờ giới.
Giữ giới tâm bất động,
Chuyên tinh không phóng dật.
Không hủy hoại giới tướng,
Tâm cũng không tà vạy,
Mới gọi là tịnh giới.
Được chư Phật tán dương.
Thế nên hãy hoan hỷ,
Giữ giới thân thanh tịnh”.
Giới bản của Đại Tỳ-kheo thuộc Luật Ma-ha-tăng-kỳ đến đây là hết.
 

TỨ PHẦN NGŨ PHẦN PĀLI
Phần Pháp (Kiền độ) Phần Pháp (Kiền độ) Vagga Khandhaka
I
 
 
 
 
 
1. Tứ Ba-la-di
2. Thập tam tăng tàn
3. Nhị bất định
4. Tam thập xả đọa
5. Cửu thập đơn đề
6. Tứ đề xá ni
7. Thức xoa ca la ni
I
 
1. Ba-la-di pháp
2. Tăng tàn pháp
3. Bất định pháp
4. Xả đọa pháp
5. Đọa pháp
6. Hối quá
7. Chúng học pháp

  1. Thất diệt tránh pháp
Sutta-vibhaṅga 1. Pārājika
2. Saṅghādisesa
3. Aniyata
4. Nissaggiya
5. Pācittiya
6. Pātidesaniya
7. Sekhiyā dhammā
8. Satta adhikaraṇa-samathā dhammā
II
 
  1. Ba-la-di pháp
  2. Tăng tàn pháp
  3. Xả đọa pháp
  4. Đơn đề pháp

 
 
 
 
5. Thọ giới kiền độ
6. Thuyết giới kiền độ
7. An cư kiền độ
8. Tự tứ kiền độ (1)

II
 
 
 
 
 
 
 
III
 
1. Ni luật Ba-la-di pháp
2. Ni luật tăng tàn pháp
3. Ni luật xả đọa pháp
4. Ni luật đọa pháp
5. Ni luật hối quá pháp
6. Ni luật chúng học
 
 

  1. Thọ giới pháp
  2. Bố tát pháp
  3. An cư pháp

4. Tự tứ pháp

Bhikkhu-ni-
vibhaṅga
 
 
 
 
 
 
Mahā-vagga
 
1. Pārājika
2. Saṅghādisesa
3. Nissaggiya
4. Pācittiya
5. Pātidesaniya
7. Ekhyā dhammā
8. Satta adhikaraṇa-
samathā dhammā
 
1. Mahākkhandhaka
2. Uposatha
3. Vassupanāyika
4. Pavārana
III
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
1. Tự tứ kiền độ hạ (II)
2. Bì cách kiền độ
3. Y kiến
4. Dược kiền độ
 
5. Ca hi na y kiền độ
6. Câu thiểm di kiền độ

  1. Chiêm ba kiền độ
  2. Ha trách kiền độ
  3. Nhân kiền độ
  4. Phú tàng kiền độ

11. Già kiền độ

  1. Phá tăng kiền độ
  2. Diệt tránh kiền độ
  3. Tỳ kheo ni kiền độ

15. Pháp kiền độ

 
III
 
 
 
 
(IV)
 
 
 
V
V
V
(IV)
V
V
 
6. Bì cách pháp
5. Y pháp
7. Dược pháp
8. Thực pháp
9. Ca-thi-na y pháp
2. Yết ma pháp
nt.
nt.
 
6. Biệt trú pháp
5. Già bố tát pháp
1. Phá tăng pháp
1. Diệt tránh pháp
8. Tỳ-kheo ni pháp
4. Oai nghi pháp
 
 
 
 
 
 
 
 
Cūla-V
 
 
5. Camma
8. Cīvara
6. Bhesajja
……
7. Kaṭhina
10. Kosambaka
9. Campaeyya
1. Kamma
nt
2. Pārivāsika
9. Pātimokkhaṭṭha-pana
7. Samghabheda
4. Samatha
10. Bhikkhuni
8. Vatta
IV 1. Phòng xá kiền độ
2. Tạp kiền độ
3. Tập pháp Tỳ-kheo ngũ bách
4. Thất bách tập pháp Tỳ-ni
5. Điều độ
6. Tỳ-ni tăng nhất
V 2. Ngọa cụ pháp
3. Tạp pháp
9. Ngũ bách tập pháp
 
10. Thất bách tập pháp
7. Điều phục pháp
6.Senāsanakkhandhaka
5. Khuddakavatthu
11. Pađcasatika
 
12. Sattasatika
 
 
 
  1. B. PHẠN BẢN – THẬP TỤNG – TỨ PHẦN
Mūlasarvāstivāda Thập tụng Tụng Tứ phần Phần
Bhaiṣạyavastu 6. Y dược Pháp IV 4. Dược kiền độ III
Cīvaravastu 7. Y Pháp IV 3. Y Kiền độ III
Kaṭhinavastu 1. Ca-thi-na-y V 5. Ca-thi-na kiền độ III
Ko’sambakavastu 2. Câu-xá-di pháp V 6. Câu-thiêm-di kiền độ III
Karmavastu 3. Chiêm-ba pháp V 7. Chiêm-ba kiền độ III
Pāṇḍulohitavastu 4. Bàn-trà Lộ-già pháp V 8. Ha trách kiền độ III
Pudgalavastu 5. Tăng tàn hối pháp V 9. Nhân kiền độ III
Pārivāsikavastu 5. Tăng tàn hối pháp V 10. Phú tàng kiền độ III
Poṣadhasthāpanavastu 6. Già pháp V 11. Già kiền độ III
‘Sayanāsanavastu 7. Ngọa cụ pháp V 1. Phịng xá kiền độ IV
Pravrajyāvastu 1. Thọ cụ túc giới pháp IV 5. Thọ giới kiền độ II
Poṣadhavastu 2. Bố tát pháp IV 6. Thuyết giới kiền độ II
Pravāraṇāvastu 3. Tự tứ pháp IV 8. Tự tứ kiền độ II
Varṣavastu 4. An cư pháp IV 7. An cư kiền độ II &III
Carmavastu 5. Bì cách pháp IV 2. Bì cách pháp III
Saṅghabhedavastu 8. Tránh sự pháp V 12. Phá tăng kiền độ III

 

  1. ĐỐI CHIẾU NỘI DUNG CÁC BỘ
  1. A. ĐỐI CHIẾU THIÊN TỤ
  2. 1. THIÊN TỤ TỲ-KHEO
  1. Ba-la-di, II. Tăng-già-bà-thi-sa, III. Bất định, IV. Ni-tát-kì, V. Ba-dật-đề, VI. Ba-la-đề đề-xá-ni, VII. Chúng học pháp, VIII. Diệt tránh.
I II III IV V VI VII VIII Tổng
Tứ phần 4 13 2 30 90 4 100 7 250
Ngũ phần 4 13 2 30 91 4 100 7 251
Tăng kỳ 4 13 2 30 92 4 66 7 218
Thập tụng A* 4 13 2 30 90 4 107 7 257
B** 4 13 2 30 90 4 113 7 263
Căn bản 4 13 2 30 90 4 99 7 249
Giải thốt 4 13 2 30 90 4 96 7 246
Tỳ-nại-da 4 13 2 30 90 4 113 7 263
Ưu-ba-li vấn 4 13 30 92 4 72 215
Pāli 4 13 2 30 92 4 75 7 227
Sarvāstivāda 4 13 2 30 90 4 113 7 263
Mūlasarvāstivāda 4 13 2 30 90 4 108 7 258
So sor thar pa 4 13 2 30 90 4 108 7 258

 
* Thập tụng Quảng luật
* Thập tụng giới bản

  1. 2. THIÊN TỤ TỲ-KHEO-NI

 

  1. Ba-la-di, II. Tăng-già-bà-thi-sa, III. Ni-tát-kì, IV. Ba-dật-đề, V. Ba-la-đề đề-xá-ni, VI. Chúng học pháp, VII. Diệt tránh.

 

I II III IV V VI Va! Tổng
Tứ phần 8 17 30 178 8 100 7 348
Ngũ phần 8 17 30 210* 8 100 7 373**
Tăng kỳ 8 19 30 141 8 77 7 290
Thập tụng 8 17 30 178 8 106 7 354
Căn bản 8 20 30 180 11 99 7 257
Pāli 8 17 30 166 8 75 7 311

 
* Giới bổn: 210; Quảng luật: 207
** Giới bổn: 373; Quảng luật: 370

  1. ĐỐI CHIẾU HỌC XỨ
  1. HỌC XỨ TỲ-KHEO

TP: Tứ phần, NP: Ngũ phần, TK: Tăng kỳ,
TT: Thập tụng, CB: Căn bản, PL: Pāli

  1. I. BA-LA-DI
…………………… TP NP TK TT CB PL
1. Bất tịnh hạnh 1 1 1 1 1 1
2. Bất dữ thủ 2 2 2 2 2 2
3. Đoạn nhân mạng 3 3 3 3 3 3
4. Đại vọng ngữ 4 4 4 4 4 4
Tổng số 4 4 4 4 4 4

 

  1. II. TĂNG-GIÀ-BÀ-THI-SA
…………………… TP NP TK TT CB PL
1. Cố ý tiết tinh 1 1 1 1 1 1
2. Xúc phạm nữ nhân 2 2 2 2 2 2
3. Nĩi lời thơ tục 3 3 3 3 3 3
4. Yêu sách cúng dường 4 4 4 4 4 4
5. Mai mối 5 5 5 5 5 5
6. Lập thất nhỏ 6 6 6 6 6 6
7. Cất chùa lớn 7 7 7 7 7 7
8. vơ căn báng 8 8 8 8 8 8
9. Già căn báng 9 9 9 9 9 9
10. Phá tăng 10 10 10 10 10 10
11. Tùy thuận phá tăng 11 11 11 11 11 11
12. Ơ tha gia 12 13 13 12 12 13
13. Ác tánh bất thọ nhân ngữ 13 12 12 13 13 12
Tổng số 13 13 13 13 13 13
  1. III. BẤT ĐỊNH
…………………… TP NP TK TT CB PL
Điều 1 1 1 1 1 1 1
Điều 2 2 2 2 2 2 2
Tổng số 2 2 2 2 2 2

 

  1. IV. NI-TÁT-KỲ-BA-DẬT-ĐỀ
…………………… TP NP TK TT CB PL
1. Súc trường y 1 1 1 1 1 1
2. Ngủ lìa y 2 2 2 2 2 2
3. Chờ y một tháng 3 3 3 3 3 3
4. Nhận y phi thân lý ni 4 4 4 4 4 4
5. Nhờ phi thân lý ni giặt y cũ 5 5 5 5 5 5
6. Xin y nơi nhà phi thân lý 6 6 6 6 6 6
7. Nhận y quá phần 7 7 7 7 7 7
8.Khuyên cư sĩ tăng giá y 8 8 8 8 8 8
9. Khuyên hai nhà tăng giá y 9 9 9 9 9 9
10. Yêu sách giá y quá hạn 10 10 10 10 10 10
11. Ngọa cụ bằng tơ tằm 11 21 13 11 11 11
12. Ngọa cụ tồn đen 12 12 11 12 12 12
13. Ngọa cụ quá bẩn 13 23 12 13 13 13
14. Ngọa cụ dưới sáu năm 14 14 14 14 14 14
15. Ngọa cụ khơng hoại sắc 15 25 15 15 15 15
16. Quảy lơng dê 16 26 16 16 16 16
17. Nhờ chảy lơng dê 17 27 17 17 17 17
18. Cầm giữ vàng bạc 18 30 18 18 18 18
19. Kinh doanh tài bảo 19 28 20 19 19 19
20. Buơn bán 20 29 19 20 20 20
21. Chứa bát dư 21 20 21 21 21 21
22. Đổi bát mới 22 19 22 22 22 22
23. Xin chỉ sợi 23 11 26 23 23 26
24. Chỉ dẫn thợ dệt 24 12 27 24 24 27
25. Đoạt lại y 25 13 24 25 25 25
26. Thuốc bảy ngày 26 15 23 30 30 23
27. Y tắm mưa 27 17 25 28 28 24
28. Y cấp thí 28 18 28 26* 26 28
29. A-lan-nhã gặp nạn lìa y 29 16 29 27** 27 29
30.Xoay tăng vật về mình 30 14 30 29 29 30
Tổng số 30 30 30 30 30 30

 
* Giới bổn: 26; Quảng luật: 27
** Giới bổn: 27; Quảng luật: 26

  1. V. BA-DẬT-ĐỀ
……………………………. TP NP TK TT CB PL
1. Cố ý vọng ngữ 1 1 1 1 1 1
2. Mắng nhiếc 2 2 2 2 2 2
3. Nĩi ly gián 3 3 3 3 3 3
4. Ngủ chung buồng người nữ 4 56 69 65 65 6
5. Ngủ chung buồng người chưa thọ cụ 5 7 42 54 54 5
6. Đọc kinh chung 6 6 6 6 6 4
7. Nĩi thơ tội 7 9 8 8 7 9
8. Nĩi pháp thượng nhân 8 8 7 7 8 8
9. Thuyết pháp quá năm lời 9 4 5 5 5 7
10. Đào phá đất 10 59 73 73 73 10
11. Phá hoại thực vật 11 11 11 11 11 11
12. Nĩi quanh 12 12 12 13 13 12
13. Nĩi xấu tăng sai 13 13 13 12 12 13
14. Trải tọa cụ tăng khơng cất 14 14 14 14 14 14
15. Trải ngọa cụ trong phịng tăng 15 15 15 15 15 15
16. Chen lấn chỗ ngủ 16 17 17 17 17 16
17. Đuổi tỳ-kheo ra ngồi 17 16 16 16 16 17
18. Ghế ngồi khơng vững 18 18 18 18 18 18
19. Dùng nước cĩ trùng 19 20 19 19 19 20
20. Cất nhà lớn 20 19 20 20 20 19
21. Giáo giới ni khơng được tăng sai 21 21 21 21 21 21
22. Giáo thọ ni sau mặt trời lặn 22 22 22 22 22 22
23. Giáo thọ ni vì lợi dưỡng 23 24 24 23 23 24
24. Cho y cho Tỳ-kheo ni 24 26 28 26 24 25
25. May y cho Tỳ-kheo ni 25 27 29 27 25 26
26. Ngồi với Tỳ-kheo ni ở chỗ khuất 26 25 25 28 29 30
27. Hẹn đi chung đường với Tỳ-kheo ni 27 28 26 24 26 27
28. Đi chung thuyền với tỳ-kheo ni 28 29 27 25 27 28
29. Thức ăn do tỳ-kheo ni chuyển hĩa 29 30 30 30 30 29
30.Đi chung đường với người nữ 30 33 31 32 32 31
31. Lữ quán một bữa ăn 31 33 31 32 32 31
32. Triển chuyển thực 32 31 32 31 31 33
33. Biệt chúng thực 33 32 40 36 36 32
34. Nhận quá ba bát 34 34 39 33 33 34
35. Dự thực pháp 35 35 33 34 34 35
36. Mời người túc thực 36 36 34 35 35 36
37. Phi thời thực 37 38 36 37 37 37
38. Thức ăn cách đêm 38 39 37 38 38 38
39. Bỏ vào miệng vật khơng được cho 39 37 35 39 39 30
40. Yêu sách mỹ thực 40 41 39 40 40 39
41. Cho ngoại đạo ăn 41 40 52 44 44 41
42. Trước sau bữa ăn đi đến nhà khác khơng báo 42 82 81 81 81 46
43. Ngồi trong nhà đang cĩ ăn 43 * 54 42 42 43
44. Ngồi với người nữ ở chỗ khuất 44 42 70 42 42 44
45. Ngồi một mình với nữ tại chỗ trống 45 44 * 29 * 45
46. Đuổi đi khơng cho thức ăn 46 76 44 51 51 42
47. Thuốc bốn tháng 47 62 74 74 74 47
48. Xem quân trận 48 45 55 45 45 48
49. Ngủ lại trong quân 49 46 56 46 46 49
50. Xem quân đội chiến đấu 50 47 57 47 47 50
51. Uống rượu 51 57 76 79 79 51
52. Đùa giỡn trong nước 52 55 66 64 64 53
53. Thọc cù nơn 53 54 67 63 63 52
54. Bất kính 54 58 77 78 78 54
55. Dọa nhát tỳ-kheo 55 73 65 66 66 55
56. Nửa tháng tắm 56 70 50 60 60 57
57. Đốt lửa 57 68 41 52 52 56
58. Giấu vật dụng của tỳ-kheo 58 78 64 67 67 60
59. Tự tiện dùng y khơng hỏi chủ 59 81 63 68 68 59
60. Hoại sắc y mới 60 77 48 59 58 58
61. Đoạn sinh mạng 61 51 61 61 61 61
62. Uống nước cĩ trùng 62 20 51 41 41 62
63. Cố gieo nghi hối 63 52 62 62 62 77
64. Che giấu thơ tội 64 74 50 50 50 64
65.Truyền cụ túc người chưa đủ 20 65 61 71 72 72 65
66. Khơi lại tránh sự 66 5 4 4 4 63
67. Đi chung với cướp 67 66 72 71 71 66
68. Kiên trì ác kiến 68 48 45 55 55 68
69. Hỗ trợ tỳ-kheo bị xả trí 69 49 46 56 56 69
70. Bao che sa-di bị đuổi 70 50 47 57 57 70
71. Khơng chịu học giới 71 63 75 75 75 71
72. Khinh chê học giới 72 10 10 10 10 72
73. Vơ tri học giới 73 64 92 83 83 73
74. Phủ nhận yết ma 74 80 9 9 9 81
75. Khơng dữ dục 75 53 79 77 77 80
76. Dữ dục rồi hối 76 79 43 53 53 79
77. Nghe lén đấu tranh 77 60 78 76 76 78
78. Sân đánh tỳ-kheo 78 71 58 48 48 74
79. Nhá đánh tỳ-kheo 79 72 59 49 49 75
80. Vu khống tăng tàn 80 75 90 69 69 76
81. Thâm nhập vương cung 81 65 82 82 82 83
82. Cầm nắm bảo vật 82 69 49 58 58 84
83. Phi thời vào xĩm 83 83 80 80 80 85
84. Giường cao quá lượng 84 85 85 85 85 87
85. Đệm bơng 85 84 86 86 86 88
86. Ơng đựng kim 86 86 83 84 84 86
87. Ni-sư-đàn quá lượng 87 87 86 89 87 89
88. Phú sang y 88 88 87 88 88 90
89. Áo tắm mưa 89 89 88 87 89 91
90. Lượng y Như Lai 90 90 89 90 90 92
Tổng số 90 91 92 90 90 92
  1. VI. DIỆT TRÁNH
……………………………. TP NP TK TT CB PL
1. Hiện tiền 1 1 1 1 1 1
2. Ức niệm 2 2 2 2 2 2
3. Bất si 3 3 3 3 3 3
4. Tự ngơn trị 4 5 4 4 6 4
5. Mích tội tướng 5 4 5 5 4 6
6. Đa nhân ngữ 6 6 6 6 5 5
7. Như thảo phủ địa 7 7 7 7 7 7

 

  1. HỌC XỨ TỲ-KHEO NI
  1. I. BA-LA-DI
    1. a. Thơng giới (như Tỳ-kheo): 1-4
    2. b. Bất cộng giới:
Tứ phần Pāli
5. Ma xúc 5
6. Bát sự 8
7. Phú tàng trọng tội 6
8. Tùy thuận bị xử 7

 

  1. II. TĂNG-GIÀ-BÀ-THI-SA

 

Tứ phần Pāli
1. Mai mối* 1
2. Vơ căn báng* 2
3. Giả căn báng* 3
4. Tố tụng 4
5. Độ nữ tặc 5
6. Tự ý giải tội 7
7. Độc hành 6
8. Nhận của nam nhiễm 8
9. Tán trợ ni khất thực bất chính 9
10. Phá hịa hiệp tăng* 10
11. Tùy thuận phá tăng* 11
12. Ơ tha gia* 12
13. Ác tánh bất thọ gián ngữ* 13
14. Tương thân tương trợ ác hành 16
15. Tán trợ ác hành 17
16. Dọa bỏ đạo 14
17. Vu tăng thiên vị 15

 
III. NI-TÁT-KỲ

  1. c. Thơng giới: 1 – 18 (như tỳ-kheo)
    1. d. Bất cộng giới: 19 – 30
Tứ phần Pāli
19. Cần vật này lại đòi vật kia 4 & 5
20. Lạm dụng vật Tăng 6 & 8
21. Lạm dụng vật tự mình xin cho Tăng 7
22. Lạm dụng vật dụng đàn việt 10
23. Lạm dụng vật đàn việt cúng cho Tăng 7 & 9
24. Chứa bát dư 1
25. Đồ dùng có màu sắc *
26. Hứa cho Tỳ-kheo-ni y bệnh (*)
27. Y phi thời 2
28. Đổi y rồi đoạt lại 3
29. Xin y nặng 11
30. Xin y nhẹ 12

(*) Cf. pā. 47

  1. BA-DẬT-ĐỀ
Tứ phần Pāli
70. Aên tỏi 1
71. Cạo lông ba chỗ 2
72. Tẩy tịnh quá phần 5
73. Hồ giao 4
74. Cùng vỗ 3
75. Hầu quạt nước Tỳ-kheo đang ăn 6
76. Xin ngũ cốc sống 7
77. Đại tiểu tiện trên cỏ tươi 9
78. Đổ đại tiểu tiện ngoài đường 8
79. Xem nghe ca múa 10
80. Nói chuyện với nam chỗ khuất 12
81. Đi với người nam chỗ khuất 12
82. Thì thầm với nam mà không đồng bạn 14
83. Đi không nói với chủ nhà 15
84. Ngồi trên giường không hỏi chủ nhà 16
85. Tự tiện trải chỗ ngồi nghỉ không hỏi chủ 17
86. Cùng người nam trong nhà tối 11
87. Thuật lời nghe không rõ 18
88. Thề thốt 19
89. Đấm ngực khóc 20
90. Hai người nằm chung giường 31
91. Chung nệm chăn 32
92. Cố ý gây phiền 33
93. Không chăm sóc ni sống chung bệnh 34
94. Đuổi ni an cư ra khỏi phòng 35
95. Du hành suốt bốn mùa 39
96. An cư xong không đi 40
97. Du hành biên giới mất an ninh 38
98. Du hành trong quốc giới không an ninh 37
99. Thân cận cư sĩ 36
100. Du lãm cung vua 41
101. Lộ hình tắm sông 21
102. Y tắm quá lượng 22
103. May y quá năm ngày 23
104. Quá năm ngày không xem tăng-già-lê 24
105. Cản trở cúng y cho Tăng 26
106. Lấy y của người khác mặc 27
107. Cho bạch y, ngoại đạo y sa-môn 28
108. Ngăn Tăng chia y 29
109. Mong Tăng không xuất y ca-thi-na 30
110. Ngăn Tăng xuất y ca-thi-na 30
111. Không vì người dập tắt tránh sự 45
112. Cho bạch y ngoại đạo thức ăn 46
113. Làm người sai khiến cho bạch y 44
114. Tự tay quay sợi 43
115. Ngồi nằm trên giường bạch y 42
116. Tá túc không từ biệt chủ *
117. Học chú thuật thế tục 49
118. Dạy người chú thuật 50
119. Độ nữ đang có thai 61
120. Độ phụ nữ đang cho bú 62
121. Độ đồng nữ chưa đủ hai mươi 71
122. Độ đồng nữ không hai năm học giới 72
123. Độ sa-di-ni không cho sáu pháp 63
124. Truyền Cụ túc Tăng chưa thuận 64
125. Thập nhị tằng giá 65
126. Độ nữ tằng giá không bạch Tăng 67
127. Cho người như vậy thọ Cụ túc 70
128. Độ đệ tử không dạy học giới 68
129. Không có hai năm theo Hòa thượng ni 69
130. Độ học pháp ni không bạch Tăng 73
131. Chưa đủ 12 hạ mà độ người 74
132. Tăng chưa cho phép mà độ người 75
133. Chê Tăng có thiên vị 76
134. Độ người cha mẹ phu chủ không đồng ý 80
135. Độ nữ đang mê luyến người nam 79
136. Sau hai năm học giới không trao Cụ túc 78
137. Nhận y mà không trao giới Cụ túc 77
138. Một năm độ hai người 82, 83
139. Cách đêm chánh pháp Yết-ma *
140. Không đến nhận giáo thọ 58
141. Nửa tháng không cầu Tăng giáo thọ 59
142. Tự tứ trước hai bộ Tăng 57
143. An cư nơi không có Tỳ-kheo 56
144. Đột nhập chùa Tỳ-kheo 51
145. Mạ lỵ Tỳ-kheo 52
146. Mạ lỵ ni chúng 53
147. Nhờ đàn ông mổ nặn nhọt 60
148. Bội ước thỉnh thực 54
149. Tật đố về gia đình 55
150. Thoa bột hương 88
151. Xức dầu vừng (mè) 89
152. Sai Tỳ-kheo-ni xoa bóp 90
153. Sai Thức-xoa-ma-na xoa bóp 91
154. Sai Sa-si-ni xoa bóp 92
155. Sai phụ nữ bạch y xoa bóp 93
156. Mặc váy lót 86
157. Chứa đồ trang sức 87
158. Mang giày dép, cầm dù 84
159. Ngồi xe cộ đi đường 85
160. Vào thôn không mặc tăng-kỳ-chi 96
161. Xẩm tối đến nhà cư sĩ *
162. Mở cửa tăng-già-lam đi ra lúc xẩm tối *
163. Mở cửa tăng-già-lam đi ra lúc mặt trời lặn *
164. Không tiền hậu an cư *
165. Trao Cụ túc người nữ bệnh nhị đạo *
166. Trao Cụ túc người hai hình *
167. Trao Cụ túc người hai đường hiệp lại *
168. Trao Cụ túc cho người mắc nợ *
169. Học kỹ thuật của thế tục tà mạng 49*
170. Dạy bạch y chú thuật của thế tục *
171. Bị đuổi mà không đi *
172. Hỏi nghĩa Tỳ-kheo không xin phép 95
173. Gây phiền phức kẻ ở trước người đến sau 33
174. Xây tháp trong tăng-già-lam có tỳ-kheo *
175. Không lễ bái tỳ-kheo mới thọ giới *
176. Đi uốn éo làm duyên *
177. Trang điểm hương thơm 87*
178. Sai nữ ngoại đạo xoa hưông 93
  1. BA-LA-ĐỀ-ĐỀ-XÁ-NI

 

Tứ phần Pāli
1. Xin bơ 1
2. Xin dầu 2
3. Xin mật 3
4. Xin mật mía 4
5. Xin sữa 7
6. Xin sữa đông 8
7. Xin cá 5
8. Xin thịt 6

(Luật Tứ Phần, HT. Thích Đổng Minh dịch, NXB Tổng Hợp TPHCM, 2006, tr. 55-76.)
Phụ lục 3
NGHI THỨC TRUYỀN GIỚI BỒ-TÁT TẠI GIA
(Trích từ “Nghi thức truyền giới và Bố-tát…”, HT. Thích Trí Thủ, in năm 1974, từ trang 16 -> trang 45)
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Chung với Bồ-tát xuất gia. Nhưng lúc truyền giới, Bồ-tát tại gia được truyền trước, Bồ-tát xuất gia được truyền sau hoặc ngược lại, hoặc Giới sư được phân làm hai ban, một ban truyền giới xuất gia, và một ban truyền giới tại gia, tại chánh điện (XG) và tại giảng đường (TG).
I. TẠI NHÀ PHƯƠNG TRƯỢNG HOAËC TẠI TĂNG ĐƯỜNG:
Lễ Thỉnh Sư
1. Vị dẫn thỉnh: Sau khi khai 3 tiếng chuông bảo chúng báo hiệu giờ truyền giới bắt đầu, khoảng 10 phút, vị dẫn thỉnh đánh ba hồi khánh và 4 tiếng, xướng rằng:
– Cung thỉnh chư Tôn đức an tọa.
– Chư giới tử cầu thọ Bồ-tát giới tựu ban. (xuất gia trước tại gia sau).
2. Đại diện giới tử tác bạch cầu thỉnh Giới sư:
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Ngưỡng bạch chư Tôn đức, chúng con có duyên sự xin đầu thành đảnh lễ tác bạch (Tất cả đồng lễ một lạy, quỳ bạch):
Ngưỡng bạch chư Tôn đức, chúng con là… bấy lâu có lòng khát ngưỡng Giới pháp Bồ-tát, hôm nay gặp đủ duyên lành, chúng con thành tâm đảnh lễ thỉnh chư Tôn đức, không quản lao nhọc, đăng đàn truyền cho chúng con Giới pháp Bồ-tát (xuất gia và tại gia). Cúi xin chư Tôn đức ai mẫn hứa khả để chúng con được ân triêm công đức. (Bạch 3 lần).
3. Lời hứa khả của Giới sư:
Lành thay, để truyền thừa sự nghiệp của đức Phật, chư Tôn đức hiện tiền đều hoan hỷ hứa khả.
4. Đại diện giới tử bạch:
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật:
Trên chư Tôn đức đã từ bi hứa khả cho rồi, chúng con xin đầu thành đảnh lễ cúng dường tam bái. (đồng lễ 3 lạy)
5. Thỉnh chư Tôn đức lên Tổ đường:
Dẫn thỉnh xướng:
– Chư giới tử xuất ban.
– Cung thỉnh chư Tôn đức tề nghệ Tổ đường.
(Đoàn cung thỉnh gồm có tàn, lọng, bê tích, khánh pháp hiệu, ngũ âm v.v… dẫn đầu, giới tử quỳ hai hàng từ Tăng đường đến Tổ đường).
II. TẠI TỔ ĐƯỜNG:
1. Giới sư và giới tử lễ Tổ:
Dẫn thỉnh xướng:
– Cung thỉnh chư Tôn đức lập ban, niêm hương cáo Tổ. (Niêm hương xong xướng lễ Tổ):
– Nhất tâm đảnh lễ Tây Thiên Đông Độ Việt Nam Lịch Đại chư vị Tổ sư Hòa thượng tam bái.
– Cung thỉnh chư Tôn đức phân lập lưỡng ban.
– Chư giới tử Bồ-tát tựu ban.
– Nhất tâm đảnh lễ Tây Thiên Đông Độ Việt Nam Lịch Đại chư vị Tổ sư Hòa thượng tam bái: (giới tử đồng lễ)
2. Thỉnh chư Giới sư lên chánh điện:
– Chư giới tử thối ban. (giới tử và đoàn cung nghinh Giới sư lên chánh điện)
– Cung thỉnh chư Tôn đức tề nghệ Tam bảo tiền.
III. TẠI CHÁNH ĐIỆN:
1. Lễ niêm hương, bạch Phật:
Dẫn thỉnh xướng:
– Cung thỉnh chư Tôn đức lập ban.
– Chư giới tử tựu ban.
– Chư giới tử! Hồ quỳ, hiệp chưởng.
– Khởi Bát nhã chung cổ.
– Cung thỉnh Giới sư niêm hương, bạch Phật, cầu gia bị.
2. Giới sư đảnh lễ: (giới tử vẫn quỳ)
Sau khi Giới sư niêm hương, dẫn thỉnh xướng lễ:
– Nhất tâm đảnh lễ, tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai thập phương thường trụ chư Phật. (1 lạy)
(Đại chúng đồng lạy, nếu chỗ rộng, không thì chỉ xá)
– Nhất tâm đảnh lễ, tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai thập phương thường trụ tôn Pháp. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ, tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai thập phương thường trụ Hiền Thánh Tăng. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ, đạo tràng Giáo chủ Bổn sư Thíc-ca Mâu-ni Phật. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Phạm Võng Giáo chủ Lô-xá-na Phật. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Thiên hoa Đài thượng Thiên bách ức hóa thân Thích-ca Mâu-ni Phật. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ đương hội đạo tràng nhất thiết chư Phật. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Đại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ-tát. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Đại Từ Di Lặc Bồ-tát. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ-tát Ma-ha-tát. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Chư vị Hộ Pháp Bồ-tát. (1 lạy)
3. Tán hương: A-xà-lê cử tán:
Nhất trần tài nhiệt, hải tạng viên thâu, hà sa chư Phật hiện mao đầu, xứ xứ tiện quy lưu, hương ái sơ phù, tâm địa giới châu lưu.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ-tát Ma-ha-tát.
4. Thỉnh chư Tôn đức thăng tòa:
Dẫn thỉnh xướng:
– Chư giới tử! Hồ quỳ, hiệp chưởng.
Dẫn thỉnh quỳ phía hữu, phía để chuông gia trì, quay mặt vào giữa, chắp tay, xướng rằng:
Nhất chú chiên đàn hương
Cử khởi biến thập phương
Thỉnh sư đăng bảo tọa
Bỉnh pháp quảng tuyên dương.
(Giới sư thăng tòa. Có thể chia thành 2 ban, nếu giới tử đông. Một ban ở tại chánh điện truyền giới Bồ-tát xuất gia. Một ban khác được cung thỉnh ra giảng đường truyền giới Bồ-tát tại gia).
Dẫn thỉnh đứng lên, xướng:
– Chư giới tử! Khởi thân, chí thành đảnh lễ tam bái.
– Chư giới tử xuất ban.
Vị dẫn thỉnh trở về chỗ ngồi cùng ngồi như chư Tôn đức.
B. PHẦN TRUYỀN GIỚI BỒ-TÁT:
I. KHAI LUẬT KỆ:
Giới sư chủ đàn đứng dậy, cầm thủ lư, cử tụng:
Nguyện thử hương hoa vân
Biến mãn thập phương giới
Nhất thiết chư Phật độ
Vô lượng hương trang nghiêm
Cụ túc Bồ-tát đạo
Thành tựu Như Lai hương.
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Khai Luật kệ:
Vô thượng thậm thâm Tỳ-ni pháp
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai Tỳ-ni nghĩa.
Giới sư chủ đàn để thủ lư xuống bàn, ngồi kiết già an tọa.
II. HỌP TĂNG, KIẾT TIỂU GIỚI:
1. Họp Tăng: Yết-ma A-xà-lê vỗ thủ xích, hỏi rằng:
– Đại đức Tăng đã họp đông đủ chưa?
– Tăng đã họp (dẫn thỉnh đáp).
– Hòa hiệp không?
– Hòa hiệp.
– Người chưa thọ giới Bồ-tát đã ra chưa?
– Đã ra.
– Các Tỳ-kheo không đến họp, có thuyết dục không.
– Không
– Tăng hội họp để làm gì?
– Vì người hảo tâm, Yết-ma truyền Bồ-tát Đại giới.
2. Kiết tiểu giới: (Nếu gặp chỗ chưa kiết giới. Chỗ đã kiết giới rồi thì không cần). Yết-ma A-xà-lê bạch rằng:
– Đại đức Tăng lắng nghe, Tăng nay họp một chỗ, kiết tiểu giới, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận cho, kiết Tiểu giới, bạch như thế, tác bạch có thành không?
– Thành (chúng Tăng đồng đáp)
– Đại đức Tăng lắng nghe, Tăng nay hội họp một chỗ kiết Tiểu giới, các Trưởng lão bằng lòng thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói. Yết-ma có thành không?
– Thành (chúng Tăng đồng đáp)
– Tăng đã bằng lòng kiết Tiểu giới xong. Tăng bằng lòng cho nên im lặng, việc này tôi ghi nhận như vậy. (Tất cả đồng chắp tay, cúi đầu xá).
III. TRUYỀN GIỚI BỒ-TÁT TẠI GIA:
1. Giới tử tựu ban, đảnh lễ:
Dẫn thỉnh đánh khánh, xướng:
– Giới tử cầu thọ giới Bồ-tát tại gia tựu ban.
(nam phía trái, nữ phía phải)
– Các giới tử hãy nghe tôi xướng và theo mỗi tiếng chuông, chí thành đảnh lễ.
– Nhất tâm đảnh lễ, tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai thập phương thường trụ chư Phật. (1 lạy)
(Đại chúng đồng lạy, nếu chỗ rộng, không thì chỉ xá)
– Nhất tâm đảnh lễ, tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai thập phương thường trụ tôn Pháp. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ, tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai thập phương thường trụ Hiền Thánh Tăng. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ, đạo tràng Giáo chủ Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Phạm Võng Giáo chủ Lô-xá-na Phật. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Thiên hoa Đài thượng Thiên bách ức Hóa thân Thích-ca Mâu-ni Phật. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ đương hội đạo tràng nhất thiết chư Phật. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Đại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ-tát. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Đại Từ Di Lặc Bồ-tát. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ-tát Ma-ha-tát. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ đương hội đạo tràng chư tôn Bồ-tát. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Lịch đại chư vị Tổ sư Bồ-tát (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ A-xà-lê Hòa thượng. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Yết-ma A-xà-lê. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ Giáo thọ A-xà-lê. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ thất vị Tôn Chứng sư. (1 lạy)
– Nhất tâm đảnh lễ hiện tiền chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng già. (1 lạy)
2. Hướng dẫn giới tử thỉnh sư:
Dẫn thỉnh xướng và hướng dẫn:
– Chư giới tử, hồ quỳ, hiệp chưởng.
– Các giới tử, các vị đã nhất tâm đảnh lễ chư Phật, chư Bồ-tát, chư Tổ và Liệt vị Giới sư. Giờ này, để khỏi bỡ ngỡ trong khi nói lời tác bạch cần cầu được truyền trao Đại giới Bồ-tát, các giới tử hãy nói lặp lại theo lời tôi hướng dẫn sau đây:
– Đại đức nhất tâm niệm, đệ tử pháp danh là… cầu xin Đại đức truyền trao cho tất cả tịnh giới Bồ-tát. Cúi xin Đại đức không vì mệt nhọc, thương tưởng, hứa khả lời thỉnh cầu của chúng con. (Bạch 3 lần, theo tiếng khánh, 3 lần cúi đầu lễ bái).
Giới sư đáp rằng:
– Lành thay! Chư Tôn đức đều hoan hỷ hứa khả.
3. Khai đạo giới tử:
Giáo thọ sư dạy bảo rằng:
– Này các Giới tử! Nên biết rằng theo tiếng Phạn, Giới được gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa, dịch là Bảo giải thoát, có nghĩa là giới thường bảo hộ người tu hành, giải thoát sinh tử, đạt đến vô thượng Bồ đề. Bởi thế, Giới là vị Đạo sư của quả vị tối thượng Bồ ầề, là đường tắt vào Vô thượng Đại Niết-bàn. Quá khứ chư Phật nhờ giới mà thành đạo. Hiện tại chư Phật lấy giới để độ sinh. Vị lai người tu hành sẽ nhờ giới mà được giải thoát. Giới là nền tảng của thiền định và trí tuệ. Muôn đức trang nghiêm, giới là căn bản. Vì thế, kinh có nói rằng: Giới như vị lương y hay trị ba độc tham, sân, si. Giới như thuyền bè đưa người qua bể khổ. Giới như chuỗi anh lạc để trang nghiêm Pháp thân. Nhưng giới này có ba thứ: một là giới tại gia là 5 giới và 8 giới; hai là giới xuất gia là 10 giới và 250 giới, ba là Đạo tục thông hành giới là Bồ-tát tam tụ tịnh giới, là giới mà các Phật tử sắp lãnh thọ.
Thế nào là Tam tụ tịnh giới?
1. Nhiếp luật nghi giới: Không làm các điều ác, để cầu chứng Pháp thân.
2. Nhiếp thiện pháp giới: Làm mọi việc lành, để cầu chứng Báo thân.
3. Nhiêu ích hữu tình giới: Làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh, để cầu chứng Hóa thân.
Giới thể tuy một, nhưng vì nhân duyên của các hàng xuất gia và tại gia không giống nhau nên sự hành trì do đó có khác. Tức là phân biệt có xuất gia Bồ-tát và tại gia Bồ-tát giới.
Giới pháp tại gia Bồ-tát này do đức Thích Tôn vì thương tưởng các hàng tại gia bị nhiều trần duyên trói buộc, nhưng đã dõng mãnh phát Bồ-đề tâm, cầu thành Phật đạo, hộ trì chánh pháp vĩnh viễn trường tồn, giáo hóa chúng sinh, tu hành thiện nghiệp, nên Ngài đã phương tiện khai thị trong kinh Ưu-bà-tắc giới.
Giới pháp này chính là căn bổn của hết thảy thiện pháp. Nếu ai thành tựu được giới pháp như vậy, chẳng những sẽ chứng đắc Tu-đà-hoàn quả cho đến A-na-hàm quả, mà còn sẽ dẫn đến Bồ-tát đạo. Nếu ai phá giới này, sẽ đọa lạc trong ba ác đạo.
Giới pháp này là bất khả tư nghì. Vì sao vậy? Vì người đã thọ giới pháp này tuy là tại gia hưởng thọ ngũ dục mà không bị chướng ngại các Thánh đạo.
– Các giới tử! Các ngươi có phải vì thương tưởng hết thảy chúng sinh mà cầu thọ giới pháp này chăng?
Giới tử đáp: – Bạch Hòa thượng, chính phải.
4. Hỏi về già nạn:
Về các già nạn, Giáo thọ sư lại hỏi tiếp rằng:
– Các giới tử! Để được thọ giới Bồ-tát, các giới tử phải là người không có 7 tội chướng. Bây giờ tôi hỏi các vị, các vị cứ như sự thật mà đáp.
1. Nay Phật không còn ở đời, nhưng những hành động moi khoét tượng Phật, phá chùa, hoại tháp, đều giống với tội làm thân Phật ra máu. Phật tử có phạm tội này không?
– Mô Phật, không. (Giới tử đáp).
2. Phật tử có giết cha không?
– Mô Phật, không.
3. Phật tử có giết mẹ không?
– Mô Phật, không.
4. Phật tử có giết Hòa thượng không?
– Mô Phật, không.
5. Phật tử có giết A-la-hán không?
– Mô Phật, không.
6. Phật tử có phá Yết-ma Tăng không?
– Mô Phật, không.
7. Phật tử có giết Thánh Tăng không?
– Mô Phật, không.
Dẫn thỉnh xướng:
– Khởi thân đảnh lễ tam bái. (Giới tử lễ 3 lạy)
Hồ quỳ, hiệp chưởng.
5. Giới sư thỉnh Phật và Bồ-tát làm Thập sư:
Giới sư hướng dẫn giới tử thỉnh Phật và Bồ-tát làm Thập sư, để cầu giới. Giới sư dạy rằng:
Các giới tử! Các vị đã không có các già nạn, tức các vị có thể thọ lãnh giới Bồ-tát. Bây giờ, các vị phải hết lòng cầu thỉnh Phật Thích-ca làm Hòa thượng, Bồ-tát Văn Thù và Di Lặc làm A-xà-lê, mười phương Như Lai là Tôn chứng sư, mười phương Bồ-tát là bạn lữ đồng học. Các vị hãy nhất tâm lặp lại theo lời tôi hướng dẫn để cầu thỉnh.
– Đệ tử pháp danh là… nhất tâm phụng thỉnh, đức Thích-ca Như Lai, vì con làm Hòa thượng. Con nương theo Hòa thượng, để được thọ giới tại gia Bồ-tát, xin thương xót chúng con. (3 lần thỉnh, 3 lần cúi đầu xá).
– Đệ tử pháp danh là… nhất tâm phụng thỉnh Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát vì con làm Yết-ma A-xà-lê. Con nương tựa theo A-xà-lê để được thọ giới tại gia Bồ-tát, xin thương xót chúng con. (3 lần thỉnh, 3 lần cúi đầu xá)
– Đệ tử pháp danh là… nhất tâm phụng thỉnh Di Lặc Bồ-tát vì con làm Giáo thọ A-xà-lê, con nương theo A-xà-lê để được thọ giới tại gia Bồ-tát, xin thương xót chúng con. (3 lần thỉnh, 3 lần cúi đầu xá)
– Đệ tử pháp danh là:.. nhất tâm phụng thỉnh thập phương Như Lai, vì con làm Tôn chứng. Con nương theo các đức Như Lai để được thọ giới tại gia Bồ-tát, xin thương xót chúng con. (3 lần thỉnh, 3 lần cúi đầu xá)
– Đệ tử pháp danh là… nhất tâm phụng thỉnh thập phương chư đại Bồ-tát, vì con làm bạn lữ đồng học, con nương theo các Bồ-tát để được giới tại gia Bồ-tát xin thương xót chúng con. (3 lần thỉnh, 3 lần cúi đầu xá)
Hướng dẫn giới tử, Dẫn thỉnh xướng:
– Khởi thân đảnh lễ chư Phật, chư Bồ-tát tam bái.
– Hồ quỳ, hiệp chưởng.
6. Dẫn sư thay giới tử bạch xin giới
Hướng dẫn giới tử thỉnh, Dẫn sư dạy rằng:
– Các giới tử, nay tôi hướng dẫn các vị cầu xin giới Bồ-tát tại gia. Các vị hãy lặp lại theo lời tôi nói:
– Chúng con pháp danh là… thành tâm cầu xin chư Đại đức thương xót trao cho chúng con tất cả tịnh giới Bồ-tát tại gia. (3 lần thỉnh, 3 lần cúi đầu xá)
– Lành thay! Hiện tiền chư Tôn đức đều hứa khả. (lời đáp của Giới sư)
7. Khuyên phát Bồ đề tâm: Giới sư bảo rằng:
– Các giới tử! Các vị muốn cần cầu giới pháp, hãy chuyên tâm, thành kính hướng về cảnh giới thanh tịnh, chớ có vọng tưởng đến cảnh khác. Hãy khởi tâm suy nghĩ như thế này: Tôi nay không bao lâu sẽ được đại công đức tạng không lường, không cùng, không có công đức nào hơn giới pháp này.
– Các giới tử! Các vị nên biết, muốn thọ giới Bồ-tát cần phải phát Bồ-đề tâm. Tâm Bồ-đề là tâm đại đạo. Thế nào gọi là tâm đại đạo? Nghĩa là tâm thật rộng lớn, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ tất cả chúng sinh, đó là đại đạo tâm, tức là Phật tâm. Vì muốn cầu Phật đạo hàng Bồ-tát phát tâm không hạn lượng, phụng thờ cúng dường không những chỉ một đức Phật, hai đức Phật mà cho đến trăm ngàn đức Phật ở khắp mười phương vô tận thế giới, hư không giới, để cầu nhất thiết trí, thành tựu không lường trăm ngàn pháp môn. Lại vì cứu độ chúng sinh, hàng Bồ-tát phát tâm không hạn lượng, không những chỉ độ chúng sinh trong một thế giới, hai thế giới mà cho đến độ thoát tất cả chúng sinh khắp 10 phương vô tận pháp giới, hư không giới. Đó là hai mục đích mà Bồ-tát phát tâm Bồ-đề. Người phát âm và lập nguyện như thế chính là Bồ-tát. Trong giờ phút trang nghiêm và thanh tịnh này, các vị đã phát tâm như thế chưa?
Giới từ đáp: Mô Phật đã phát.
Giới sư lại dạy rằng:
Các giới tử! Bồ-tát chỉ mới phát tâm Bồ-đề thôi mà đã có căn lành, công đức không hạn lượng. Vì sao? Vì Bồ-tát này không dứt chủng tánh Như Lai. Vì do phát tâm mà hành Bồ-tát được tất cả chư Phật trong ba đời thường nhớ tưởng, hộ niệm, và sẽ được Vô thượng Bồ-đề của tất cả chư Phật trong ba đời, đồng thời cũng được nhập vào thể tánh bình đẳng như tất cả chư Phật. Bởi thế, ngay lúc phát tâm Bồ-đề, liền được tất cả Như Lai khen ngợi, liền được trừ diệt tất cả thống khổ trong các ác đạo, liền có thể sẽ được thanh tịnh quốc độ Phật, và được chủng tánh Phật, rồi đây các Phật tử sẽ ở trong các thế giới, sẽ thị hiện làm Phật.
Các giới tử! Các vị có phải là Bồ-tát không?
Giới tử đáp: Mô Phật, phải.
Giới sư lại hỏi tiếp:
– Các giới tử đã nguyện phát tâm Bồ-đề chưa?
Giới tử đáp: Mô Phật, đã phát tâm Bồ-đề. (cúi đầu xá)
8. Gạn hỏi phép thọ giới. Giới sư hỏi rằng:
Các giới tử! Hãy lắng nghe tôi hỏi. Trong giờ phút trang nghiêm thanh tịnh này, các vị muốn nương nơi tôi để thọ tất cả học xứ của Bồ-tát, thọ lãnh tất cả tịnh giới của Bồ-tát; đó là Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới. Học xứ như thế, tịnh giới như thế, quá khứ tất cả Bồ-tát đều đã đầy đủ; vị lai tất cả Bồ-tát đều sẽ đầy đủ; hiện tại tất cả Bồ-tát đang có đầy đủ. Học xứ này, tịnh giới này, quá khứ tất cả Bồ-tát đã học; vị lai tất cả Bồ-tát sẽ học; hiện tại tất cả Bồ-tát đang học. Các vị có thể thọ trì được không?
Giới tử đáp: Mô Phật, thọ được (3 lần hỏi đáp, 3 lần đánh khánh khấu thủ)
9. Thọ 4 tín tâm thất hoại:
Giới sư dạy bảo rằng:
Các giới tử! Trong giờ phút này, các vị còn phải thọ 4 điều tin kiên cố, kinh gọi là “Tứ bất hoại tín”. Các vị hãy lặp lại theo lời tôi hướng dẫn, và hãy chí thành lãnh thọ.
Đệ tử pháp danh là… từ thân này cho đến thân cùng tột đời vị lai, nguyện quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, quy y chánh pháp giới. (3 lần lặp lại, 3 lần cúi đầu xá)
10. Sám hối tội trong ba đời:
Giới sư dạy bảo rằng:
Các giới tử! Các vị đã thọ 4 đức tin kiên cố rồi. Giờ này trước Tam bảo, các vị nên sám hối tội lỗi trong ba đời, các vị hãy lặp lại lời tôi nói:
Đệ tử pháp danh là… nếu trong quá khứ, thân, khẩu, ý đã tạo mười điều ác, thì hôm nay nguyện cùng tận đời vị lai, không bao giờ sinh khởi, tái phạm. (3 lần lặp lại, 3 lần cúi đầu xá).
Đệ tử pháp danh là… nếu trong đời hiện tại, thân, khẩu, ý đã tạo mười điều ác, thì hôm nay nguyện cùng tận đời vị lai, không bao giờ sinh khởi. (3 lần lặp lại, 3 lần cúi đầu xá).
Đệ tử pháp danh là… nếu trong đời vị lai, thân, khẩu, ý đã tạo mười điều ác, thì hôm nay nguyện cùng tận đời vị lai, không bao giờ sinh khởi, tái phạm. (3 lần lặp lại, 3 lần cúi đầu xá).
Giới sư lại dạy tiếp:
Các giới tử! Các vị phải dốc lòng cầu sám hối các tội lỗi. Hãy lặp lại lời tôi hướng dẫn:
Xưa con đã tạo các ác nghiệp
Đều do vô thỉ tham, sân, si
Từ thân miệng ý phát sinh ra
Tất cả con nay xin sám hối.
Nam mô Cầu Sám Hối Bồ-tát Ma-ha-tát. (3 lần cúi đầu xá)
Dẫn thỉnh xướng:
– Khởi thân, chí thành đảnh lễ Tam bảo tam bái.
– Hồ quỳ, hiệp chưởng.
11. Khuyên phát nguyện rộng lớn:
Giới sư khuyên dạy rằng:
Các giới tử! Các vị đã sám hối rồi, 3 nghiệp thanh tịnh, như bình lưu ly trong sạch, trong ngoài sáng chói. Bây giờ, các vị nên đối với bốn chân lý khổ, tập, diệt, đạo phát 4 lời thệ nguyện rộng lớn.
Thế nào là khổ đế? Khổ là các thứ quả báo mà tất cả chúng sinh trong lục đạo đều phải gánh chịu. Bồ-tát thấy thế liền phát nguyện cứu độ tất cả chúng sinh thoát ly khổ quả. Tức là chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
Thế nào là tập đế? Tập là những phiền não vọng tưởng mà tất cả chúng sinh đã tích lũy từ vô thủy kiếp đến nay, chiêu cảm vô lượng khổ quả ở vị lai, xoay vần trong ba cõi, không hẹn ngày ra khỏi. Bồ-tát thấy thế liền phát nguyện cứu độ tất cả chúng sinh, bằng cách trừ diệt tất cả phiền não nghiệp cảm. Tức là phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Thế nào là diệt đế? Đây là Niết-bàn vắng lặng. Tất cả chúng sinh vì không biết tu hành theo chánh pháp, nên không chứng được Niết-bàn không sinh không diệt của chư Phật Như Lai. Bồ-tát thấy thế, liền phát nguyện chóng thành Phật đạo để hóa độ chúng sinh. Tức là Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Thế nào là đạo đế? Đây là con đường, là phương pháp tu nhân chân chính để được giải thoát. Tất cả chúng sinh vì không biết tu tập chánh pháp, cho nên phải trôi lăn trong sáu đường, không thể nào được an lạc, tự tại. Bồ-tát thấy thế, liền tuyên dương vô lượng pháp môn để giáo hóa chúng sinh tu học. Tức là pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Bốn chân lý mà tôi vừa trình bày, là nơi nương tựa cho bốn thệ nguyện rộng lớn.
Các giới tử phải nhất tâm phát 4 lời nguyện rộng lớn, bằng cách lặp lại theo lời tôi hướng dẫn:
Đệ tử pháp danh là… dốc lòng phát nguyện: chúng sanh không số lượng, thề nguyện đều độ thoát; phiền não không cùng tận, thề nguyện đều dứt sạch; pháp môn không số kể, thề nguyện đều tu học; Phật đạo không gì hơn, thề nguyện đều viên thành.
(Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành)
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ-tát
(3 lần đọc, 3 lần cúi đầu xá)
12. Khải bạch pháp Yết-ma: Giới sư dạy bảo:
Các giới tử! Các vị đã phát nguyện rộng lớn rồi, tôi nay vì các vị mà khải bạch Tam bảo chứng minh cho các vị thọ giới. Vậy các vị nên nhất tâm lắng nghe để ý suy nghĩ kỹ.
Nên biết rằng: Bạch Yết-ma lần thứ nhất rồi, giới pháp tốt lành to lớn trong mười phương thế giới, do năng lực tâm nghiệp cảm cách của quý vị mà thảy đều chấn động. Bạch Yết-ma lần thứ hai rồi, pháp giới tốt lành to lớn trong mười phương thế giới, như mây, như lọng, che trên đảnh các vị. Bạch Yết-ma lần thứ ba xong, pháp giới tốt lành to lớn trong mười phương thế giới, từ đảnh môn quý vị chảy vào trong thân tâm các vị. Các vị sẽ được chánh báo tốt đẹp, đầy đủ, cùng tột đời vị lai, hằng tiếp nối làm giống Phật.
Đây là giới thể vô tác, đạo pháp vô lậu, do chỗ cơ cảm tăng thượng thiện tâm của quý vị mà thành tựu. Bởi thế, các vị phải chí thành cúi đầu thọ lãnh.
13. Chính thức bạch Yết-ma:
Giới tử vẫn quỳ như cũ. Giới sư đến trước tượng Phật quán tưởng thập phương Tam bảo, cầm ba nén hương, quỳ bạch rằng:
Ngưỡng bạch chư Phật, chư Bồ-tát trong mười phương vô biên thế giới. Trong đạo tràng này, các Phật tử đã ba lần cầu xin Giới sư chúng con cho thọ giới Bồ-tát tại gia. Con đã tác chứng cho các giới tử. Cúi xin chư Phật, chư Bồ-tát, chư Hiền Thánh trong mười phương pháp giới, từ bi chứng giám cho các giới tử tại đạo tràng này được thọ giới Bồ-tát tại gia.
(3 lần bạch, 3 lần cúi đầu xá)
14. Dặn bảo bền giữ giới pháp:
Sau khi bạch Phật xong trở về chỗ, Giới sư dặn bảo giới tử rằng:
– Các giới tử! Từ trước đến nay, chư Tôn đức đã cung đối trước chư Phật, chư Bồ-tát, đã ba lần bạch Yết-ma.
Ở trong Thánh chúng, đức Thích-ca có dặn bảo như thế này: Đại chúng hãy lắng nghe, ở trong thế giới Ta-bà này cõi nước Việt Nam này, có Phật tử pháp danh là… cầu thọ tịnh giới Bồ-tát. Vì Phật tử này không thầy, tôi rất xót thương, xin đứng làm thầy. Trong giờ phút này, mười phương các đức Như Lai nghĩ tưởng các vị là con, các Đại Bồ-tát nghĩ tưởng các vị là em. Nhờ lòng từ bi thương tưởng của chư Phật, chư Bồ-tát, từ nay cho đến về sau, các vị sẽ được tăng trưởng công đức, thiện căn không bao giờ mất. Các vị hãy tinh chuyên nhớ nghĩ bền giữ không phạm, để giới thể tròn đầy, trọn không lùi sụt, cho đến ngày chứng quả Bồ-đề, thành tựu 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Các vị có đầy đủ tất cả chủng trí thần thông diệu dụng, vô lượng pháp môn, để đi khắp trong mười phương rộng độ chúng sinh, lòng không mỏi mệt.
Dẫn thỉnh xướng rằng:
– Khấu thủ, (giới tử cúi đầu xá)
15. Truyền 6 trọng pháp:
Để truyền 6 trọng pháp, Giới sư dạy rằng:
Các giới tử! Hãy lắng nghe cho kỹ, Bồ-tát tại gia có 6 trọng pháp, nếu người nào thọ giới rồi mà phạm là không phải hạnh Bồ-tát, sẽ mất 42 quả vị Hiền Thánh. Các vị hãy lắng nghe và lãnh thọ:
1. Từ thân này đến thân thành Phật, trong thời gian ấy, không được sát sinh. Các Phật tử giữ được không?
– Mô Phật, giữ được. (giới tử đáp, cúi đầu xá)
2. Từ thân này đến thân thành Phật, trong thời gian ấy, không được trộm cắp. Các Phật tử giữ được không?
– Mô Phật, giữ được. (giới tử đáp, cúi đầu xá)
3. Từ thân này đến thân thành Phật, trong thời gian ấy, không được tà dâm. Các Phật tử giữ được không?
– Mô Phật, giữ được. (giới tử đáp, cúi đầu xá)
4. Từ thân này đến thân thành Phật, trong thời gian ấy, không được nói dối. Các Phật tử giữ được không?
– Mô Phật, giữ được. (giới tử đáp, cúi đầu xá)
5. Từ thân này đến thân thành Phật, trong thời gian ấy, không được nói lỗi của người tại gia và người xuất gia. Các Phật tử giữ được không?
– Mô Phật, giữ được. (giới tử đáp, cúi đầu xá)
6. Từ thân này đến thân thành Phật, trong thời gian ấy, không được bán rượu, nấu rượu. Các Phật tử giữ được không?
– Mô Phật, giữ được. (giới tử đáp, cúi đầu xá)
16. Khuyên học và giữ 28 giới khinh:
Giới sư truyền dạy:
Các giới tử! Vừa rồi, tôi đã trao cho các Phật tử 6 trọng pháp. Còn 28 tội thất ý, các Phật tử phải học mới biết và giữ gìn không phạm. Tiếp theo đây, tôi nói về 28 tội thất ý này, các Phật tử hãy lắng nghe.
1. Không cúng dường cha mẹ, sư trưởng, đó là Bồ tát tại gia phạm tội thất ý.
2. Say đắm rượu chè, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
3. Cố ý gớm ghê không chăm sóc người bệnh khổ, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
4. Gặp người hành khất, không nhiều thì ít, phải tùy tâm mà bố thí, nếu để người hành khất về không, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
5. Nếu thấy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Trưởng lão, bậc Tôn đức, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di v.v… không đứng dậy nghinh tiếp, lễ bái hỏi thăm, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
6. Nếu thấy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hủy phạm giới đã thọ, sinh tâm kiêu mạn, rồi nói rằng: “Ta hơn những người kia, người kia không bằng ta”, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
7. Trong mỗi tháng có sáu ngày trai, nếu không đi thọ Bát quan trai giới, không cúng dường Tam bảo, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
8. Trong khoảng 40 dặm, có nơi thuyết pháp, mà không đến nghe, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
9. Thọ dụng vật của thường trụ Tăng như: ngọa cụ, giường, tòa ngồi, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
10. Nghi trong nước có vi trùng, nhưng vẫn tùy tiện dùng, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
11. Không có bạn mà vẫn một mình đi vào những nơi hiểm nạn, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
12. Một mình ngủ lại tại chùa Ni, nếu là Ưu-bà-tắc, hoặc chùa Tăng, nếu là Ưu-bà-di, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
13. Vì của cải, thân mạng mà đánh mắng người giúp việc, trẻ con hầu hạ, hoặc người ngoài… đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
14. Nếu đem thức ăn dư thừa dâng cúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hoặc cung cấp cho người đồng giới, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
15. Nếu nuôi (những loài ăn thịt) như mèo, chồn… đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
16. Có các loài vật như voi, ngựa, trâu, dê, lừa, lạc đà v.v… nếu không làm phép tịnh thí cho những người chưa thọ giới, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
17. Nếu không sắm cất các thứ y bát, tích trượng, ngọa cụ (để phòng khi cần cúng dường cho vị xuất gia thọ Bồ-tát giới), đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
18. Nếu vì nuôi thân mạng mà phải làm ruộng, nhưng không tìm nước trong (để tưới) và đất ruộng cũ (để trồng trọt), đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
19. Nếu vì nuôi thân mạng mà mở tiệm buôn bán hàng hóa, thì khi đã thỏa thuận giá cả với ai rồi, không được đem bán cho người trả giá cao hơn. Cân đấu dùng để cân đo hàng hóa phải đúng mức đã định từ trước; nếu cân đấu không đúng mức, phải sửa chữa lại cho đúng mức. Nếu không như vậy, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
20. Nếu không phải chỗ, không phải thời mà hành dục, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
21. Nếu vì buôn bán mà đẩy giá lên xuống, mua rẻ, bán đắt, gian lận trốn thuế, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
22. Trái phạm luật pháp nhà nước, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
23. Nếu có lúa mới, hoa trái, dưa rau các thứ đầu mùa, không cúng dường Tam bảo mà thọ dụng trước, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
24. Nếu chúng Tăng không chấp thuận mà vẫn tự mình thuyết pháp, tán thán quan điểm riêng của mình, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
25. Trên đường đi mà giành đi trước Tỳ-kheo, Sa-di, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
26. Sau khi dọn thức ăn ở giữa Tăng chúng, nếu vì thiên vị thầy mình mà lựa chọn các thứ ngon lành dâng cho nhiều hơn các vị khác, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
27. Nếu nuôi tằm, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
28. Trên đường đi gặp người bệnh tật mà không dừng lại chăm sóc, làm các phương tiện, dặn bảo những người tại chỗ giúp đỡ, lại thản nhiên bỏ đi, đó là Bồ-tát tại gia phạm tội thất ý.
Các giới tử! Sau khi đã thọ giới Bồ-tát tại gia rồi, mà phạm một trong 28 tội thất ý trên đây, thì giới thể sẽ không còn được vững vàng, trở thành bất tịnh, bị chướng ngại. Vậy các người phải cẩn thận mà hành trì.
Giới tử đáp: – Y giáo phụng hành. (3 lần)
17. Lợi ích của giới Bồ-tát:
Giới sư nói lợi ích của giới Bồ-tát và khuyên giới tử nghiêm trì. Giới sư dạy bảo rằng:
Các giới tử! Vừa rồi, tôi đã truyền cho các Phật tử 6 giới trọng và 28 tội thất ý.
Các Phật tử nên biết rằng: Giới Bồ-tát là giới nặng về phần lợi tha. Hàng Bồ-tát luôn luôn quên mình vì người, thay người khác chịu khổ, nhận cái vui của người khác làm cái vui của mình. Nhân đã cao thượng, rộng lớn như thế, cho nên kết quả cũng thật tốt đẹp vô biên. Bởi thế, kinh còn gọi giới của Bồ-tát là giới vô tận tạng, nghĩa là trong giới có hàm chứa các công đức rất lớn lao, không cùng tận, các giới khác không thể sánh kịp. Giới Bồ-tát giúp người qua khỏi bến mê, vượt ra ngoài sinh tử. Từ đời này đến đời khác giới thường hỗ trợ người tu hành, theo người tu hành cho đến ngày thành Phật. Người thọ giới Bồ-tát tức là đã tham dự vào địa vị Phật đà.
Vậy các Phật tử hãy nỗ lực, tinh tấn hành trì, cẩn thận chớ buông lung.
(câu chót, Giới sư nói 3 lần, để giới tử đáp 3 lần)
Giới tử đồng thanh đáp rằng:
– Y giáo phụng hành. (3 lần)
Giới sư lại tiếp rằng:
– Các giới tử đã nguyện y giáo phụng hành, vậy hãy đứng dậy lễ tạ Tam bảo.
Dẫn thỉnh xướng:
– Nhất tâm đảnh lễ tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng Thường trụ Tam bảo, tam bái.
C. CÚNG HƯƠNG: (nếu có)
Dẫn thỉnh xướng:
– Hồ quỳ, hiệp chưởng. (Giới tử đồng quỳ)
Vài lời khai đạo Giới tử về lễ cúng hương, Giới sư dạy rằng:
Các giới tử! Các người đã phát tâm Bồ đề, thọ giới Bồ-tát tại gia, chí cầu Phật thừa, nguyện hành Bồ-tát đạo, ấy là làm những việc khó làm, cho nên từ đây cho đến tận vị lai, trên vì Phật đạo, dưới vì hết thảy chúng sinh, không bao giờ được thối ý khiếp nhược, không bao giờ tiếc nuối cái gì, dù cả thân mạng của mình. Như Bồ-tát Địa Tạng nguyện mãi mãi ở chốn u đồ để hóa độ chúng sinh ác nghiệp. Như Bồ-tát Dược Vương tự đốt cháy thân mình trên để cúng dường chư Phật và chánh pháp, dưới để rọi sáng chúng sinh trong chỗ tối tăm. Các hạnh nguyện Đại hùng Đại lực ấy, đức hy sinh vô úy ấy, các người phải từ nay cho đến cùng tận vị lai luôn luôn noi theo mà học tập và hành trì.
Nay để phát dương chí nguyện cao vời ấy, các người cần đối trước Tam bảo tự đốt lên một phần nhỏ của thân thể để chứng minh ý chí Đại hùng của người đã thọ Bồ-tát giới.
Đối trước Tam bảo, các Phật tử đã phát tâm cúng hương, vậy hãy dũng mãnh lên và chí thành niệm Phật cầu gia hộ.
Dẫn thỉnh xướng:
– Khởi thân, chí thành đảnh lễ Tam bảo, tam bái.
– Chư giới tử kiết già an tọa.
– Cung thỉnh chư Tôn đức hộ hương tấn đàn.
Lễ cúng hương bắt đầu, Giới sư cùng Đại chúng hướng về Tam bảo nhất tâm niệm Phật. Giới sư cử tụng.
A Di Đà Phật thân kim sắc…
D. HỒI HƯỚNG
Sau khi hoàn tất lễ cúng hương. Giới sư cùng Đại chúng hướng về Tam bảo, tụng hồi hướng:
– Ma ha bát nhã ba la mật đa ………………
– Thiên A-tu-la dược-xoa ………………
– Thọ giới công đức thù thắng hạnh ………………
– Tam tự quy ………………
E. GIỚI TỬ LỄ TẠ
Sau ba tự quy, Giới sư vẫn an tọa, Giới tử lễ tạ.
Dẫn thỉnh xướng:
– Nhất tâm đảnh lễ, tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương Thường trụ Tam bảo, tam bái.
– Nhất tâm đảnh lễ, Ta bà thế giới Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, tam bái.
– Nhất tâm đảnh lễ, Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, tam bái.
– Nhất tâm đảnh lễ, Di Lặc Bồ-tát, tam bái.
– Nhất tâm đảnh lễ, Thập phương Như Lai, tam bái.
– Nhất tâm đảnh lễ, Thập phương chư Đại Bồ-tát, tam bái.
– Nhất tâm đảnh lễ, Đắc giới Hòa thượng, tam bái.
– Nhất tâm đảnh lễ, Liệt vị A-xà-lê, tam bái.
– Nhất tâm đảnh lễ, hiện tiền chư vị Đại đức Tăng già, tam bái.
– Giới tử thoái ban. (ra xếp hàng đợi tiễn chư Tôn đức)
G. GIẢI TIỂU GIỚI: (nếu có kiết giới)
I. Họp Tăng: (như phần kiết tiểu giới)
II. Giải Tiểu giới:
Vị Yết-ma bạch rằng:
Đại đức Tăng lắng nghe, Tăng nay họp để giải tiểu giới, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận cho giải tiểu giới, bạch như thế, tác bạch có thành không?
– Thành (chúng đồng đáp)
– Tăng đã bằng lòng giải Tiểu giới nên im lặng, việc ấy tôi ghi nhận như vậy.
Nguyện dĩ thử công đức ………………
Hòa nam Thánh chúng.
H. THỈNH GIỚI SƯ VỀ TỔ ĐƯỜNG, TẠ TỔ, VỀ TỊNH PHÒNG AN NGHỈ:
Dẫn thỉnh xướng:
– Cung thỉnh chư Tôn đức thối ban, hồi nghệ Tổ đường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đại Chính tạng các tập 22-24 (Phần giới luật).
Tục tạng kinh tập 65, Tỳ-ni tác trì tục thích (Luật sư Châu Hoằng soạn).
Luật tông khái thuật cập kỳ thành lập…, nhiều tác giả, Đài Bắc, 1978.
Luật tông tư tưởng luận tập, nhiều tác giả, Đài Bắc, 1979.
HT. Thích Trí Thủ, Yết-ma yếu chỉ, Trường Cao cấp…,1991.
HT. Thích Trí Thủ, Tứ phần hiệp chú, Trường Cao cấp…,1991.
HT. Thích Trí Thủ, Toàn tập Tâm Như Trí Thủ, Nxb:Tp.HCM, 2002.
HT. Thích Trí Quang, Tỳ-kheo giới, Nxb: Tp.HCM, 1994.
HT. Thích Trí Quang, Tỳ-kheo-ni giới, Nxb: Tp.HCM, 1994.
HT. Thích Trí Quang, Bồ-tát giới, Nxb: Tp.HCM, 1994.
HT. Thích Trí Quang, Sa-di giới và Sa-di-ni giới, Nxb: Tp.HCM, 1994.
HT. Thích Thiện Siêu, Cương yếu giới luật, Viện Nghiên cứu PHVN, 1996.
HT. Thích Thiện Hòa, Giới đàn Tăng, Nxb: Tp.HCM, 1991.
HT. Thích Thanh Kiểm, Luật học đại cương, Thành hội Phật giáo Tp.HCM, 1991.
HT. Thích Hành Trụ, Luật Tứ phần giới bổn như thích, S. 1967.
HT. Thích Đôn Hậu, Cách thức sám hối các tội phạm giới, GHTGTP xb. 1961.
HT. Thích Đôn Hậu, Tứ Phần Tỳ-kheo-ni sao (dịch), Giáo hội PGVN xb. 1986 .
HT. Thích Đỗng Minh, Luật Bí-sô (Căn bản), [cảo bản], 1998.
HT. Thích Đỗng Minh, Luật Bí-sô-ni (Căn bản), [cảo bản], 1998.
HT. Thích Đỗng Minh, Tâm Hạnh, Bách nhất Yết-ma (dịch), [cảo bản], 1990.
HT. Thích Đỗng Minh, Luật Ngũ phần (dịch), [cảo bản], 1997.
HT. Thích Đỗng Minh, Trùng trị Tỳ-ni… (dịch), Nxb Tôn giáo, 2006.
HT. Thích Đỗng Minh, Luật Tứ phần (dịch), Nxb Tổng hợp, Tp HCM. 2006.
HT. Thích Đỗng Minh, Luật Tỳ-kheo sớ nghĩa (dịch), [cảo bản], 1994.
HT. Thích Đỗng Minh, Nghi truyền giới (soạn), [cảo bản], 1999.
HT. Thích Thiện Chơn, Luật Tứ phần bổn giới Tỳ-kheo-ni lược ký, ấn tống, Pl.2513.
HT. Thích Bình Minh, Yết-ma chỉ nam (dịch), Thành hội Phật giáo, 1991.
Pháp sư Thích Thánh Nghiêm, Giới luật học cương yếu, Đài Bắc, 1990.
Luật sư Hoằng Xuyên, Tăng-già tác trì yếu tập, Đài Bắc, 1990.
Tỳ-kheo Thích Phước Sơn, Luật Ma-ha-tăng-kỳ (dịch), Nxb Tôn giáo, 2003.
Tỳ-kheo Hộ Tông, Luật xuất gia, S. 1966.
Tỳ-kheo Giới Nghiêm, Luật tạng Pàli.
Tỳ-kheo Bửu Chơn, Tứ Thanh tịnh giới, S. 1970.
Tỳ-kheo Giác Giới, Luật nghi tổng quát, 1985.
Bhikkhu Indacanda (Trương Đình Dũng), Tạng Luật Phật giáo Nguyên thủy (dịch), Nxb Tôn giáo, 2005.
Tỳ-kheo Thích Tâm Hạnh, Tỳ-kheo giới tướng biểu ký (dịch), 1996.
Tỳ-kheo Thích Tâm Hạnh, Chú giải luật Thiện kiến [cảo bản], 2.543.
Tỳ-kheo-ni Thể Thanh, Luật Tứ phần TKN giới bổn lược ký, Trường Cao cấp.., 1991.
Thích nữ Tuệ Đăng, Giới luật học cương yếu (dịch), Thành hội PG, 2000.

Add Comment