Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
Phật Học Khái Luận
Thích Chơn Thiện In Lần Thứ Hai – 1997
Chương Hai – Pháp Bảo
Tiết XXI
Chánh và Tà Pháp – Thiện và Bất Thiện –
Thuyết Pháp và Nghe Pháp –
Sống theo Pháp và Hành theo Pháp
Qua phần trình bày các giáo lý về Giới, về Ðịnh và về Tuệ, chúng ta đã nắm được ý nghĩa thế nào là Chánh pháp. Thế nào là tà pháp. Thế nào là thiện. Thế nào là bất thiện. Tại đây chúng ta đi vào những định nghĩa trực tiếp của Thế Tôn về các tiểu mục như trên.
– “Này các Tỷ-kheo, thế nào là phi Thánh pháp? – Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà giải thoát, tà tri kiến giải thoát gọi là phi Thánh pháp”. (Tăng Chi III-B, tr. 228).
Ngược lại mười phi Thánh pháp kể trên gọi là Thánh pháp.
– “Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham, sân, tà kiến. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là phi pháp và phi mục đích”. (Sđd., tr. 236)
Ngược lại với các điều ấy gọi là pháp và mục đích.
Về thiện pháp và bất thiện pháp thì như chúng ta đã rõ, cái gì làm sinh khởi tham, sân, tà kiến cho mình và cho người thì gọi là bất thiện. Cái gì làm sinh khởi vô tham, vô sân, và chánh kiến gọi là thiện. Hay nói cách khác, các pháp nào liên hệ với tham, sân và tà kiến thì gọi là bất thiện pháp. Pháp nào liên hệ với vô tham, vô sân, và chánh kiến thì gọi là thiện pháp.
Tại đây, chúng ta sẽ rõ hơn về ý nghĩa thiện và bất thiện qua một số định nghĩa khác nhau của Thế Tôn:
– “… Những pháp nào thuộc phần thiện, tất cả những pháp ấy lấy không phóng dật làm căn bản, lấy không phóng dật làm chỗ quy tụ; không phóng dật được gọi là tối thượng đối với những pháp ấy”. (Tương Ưng V, 1982, tr. 95).
– “… Phàm pháp nào thuộc về phần thiện, tất cả những pháp ấy lấy như lý tác ý làm căn bản, lấy như lý tác ý làm chỗ quy tụ; như lý tác ý được gọi là tối thượng đối với những pháp ấy”. (Sđd., tr. 95).
Ngược lại, các bất thiện pháp thì liên hệ căn bản đến phóng dật và phi như lý tác ý.
Nếu hành giả tinh cần và để chánh kiến tác ý trên Khổ, Vô thường và Vô ngã thì các bất thiện pháp sẽ dần dần bị đoạn diệt.
Về ý nghĩa của thuyết pháp, nghe pháp và hành pháp thì Tôn giả Xá-lợi-phất dạy:
– “… Những ai thuyết Pháp để đoạn tận tham, những ai thuyết Pháp để đoạn tận sân, những ai thuyết Pháp để đoạn tận si, những vị ấy là những vị thuyết Pháp ở đời”. (Tương Ưng IV, 1982, tr. 257).
– “Những ai thực hành đoạn tận tham, thực hành đoạn tận sân, thực hành đoạn tận si, những vị ấy là những vị khéo thực hành ở đời”. (Sđd., tr. 257).
Như thế, trọng điểm của việc học hỏi Phật pháp, hiểu Phật pháp, hành Phật pháp và nói Pháp chính là việc đoạn trừ tham, sân, si.
Trọng điểm của việc giải thoát là tu tập để đoạn tận tham, sân, si nên một lần Thế Tôn đã xác định như thế nào là sống theo Pháp rằng:
– “Ở đây, vị Tỷ-kheo học thông suốt Pháp tức là Khế kinh (Sutta), ng dụng (Gayyam), Ký thuyết (Veyyàkaranam), Phúng tụng (Gàtham), Vô vấn tự thuyết (Udànam), Như thị thuyết (Ittivuttaka), Bổn sanh (Jàtaka), Vị tằng hữu pháp (Abbhutàdhammam), Trí giải hay Phương quảng (Vedalla). Vị ấy dùng trọn cả ngày để học thuộc lòng Pháp, bỏ phế sống độc cưan tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là vị Tỷ-kheo thông đạt nhiều kinh điển, nhưng không sống theo Pháp”. (Tăng Chi II-B, 1982, tr. 118).
– “Lại nữa, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thuyết cho các người khác một cách rộng rãi pháp như đã được nghe, như đã được học thông suốt… Vị ấy dùng trọn cả ngày để trình bày Pháp cho các người khác, bỏ phế sống độc cư an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo thuyết trình nhiều, nhưng không sống theo Pháp”. (Sđd., tr. 118).
– Lại nữa, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đọc tụng một cách rộng rãi Pháp như đã được nghe, như đã học thuộc lòng. Vị ấy dùng trọn cả ngày để tụng đọc, bỏ phế sống độc cư, an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đọc tụng nhiều, nhưng không sống theo Pháp”. (Sđd., tr. 119).
– “Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo… dùng trọn cả ngày suy tầm nhiều về Pháp, bỏ phế sống độc cư an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo suy tầm nhiều, nhưng không phải sống theo Pháp”. (Sđd., tr. 119).
Tiếp theo đoạn kinh trên, Thế Tôn dạy đại để rằng, nếu làm các công việc trên một phần của ngày và để một phần của ngày vào công việc sống độc cư, chuyên tâm tịnh chỉ, thì như vậy có nghĩa là sống theo Pháp. Ðoạn Thế Tôn kết thúc bằng lời giáo giới này:
– “Này các Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây là những căn nhà trống. Này các Tỷ-kheo, hãy tu Thiền, chớ có phóng dật. Chớ để về sau phải hối tiếc. Ðây là lời giáo giới của Ta dành cho các Ông”. (Sđd., tr. 119).
Cuối cùng, vấn đề giải thoát, vấn đề sống với Chánh pháp vẫn là việc hành Thiền định để đoạn tận các lậu hoặc.
Về những người nghe Pháp, Thế Tôn đã phân loại có ba hạng:
– Một hạng người, ngay tại chỗ ngồi nghe, đã không để tâm tác ý đến bài kinh thuyết giảng.
– Một hạng người khác, sau khi rời khỏi chỗ nghe thì tâm không còn tác ý đến bài giảng.
– Hạng thứ ba thì có chú tâm tác ý và nắm giữ được ý nghĩa của bài giảng trong lúc giảng và cả sau lúc giảng. Chỉ có hạng nghe Pháp thứ ba này là người nghe Pháp tốt nhất với trí tuệ rộng lớn. (Theo Tăng Chi I, 1980, tr. 145-146).
Ích lợi lớn nhất của việc nghe Pháp chính là để hiểu Pháp. Ích lợi lớn nhất của việc hiểu Pháp là hỷ tâm và tín tâm sinh để vận dụng vào việc tu tập Pháp. Ích lợi lớn nhất của việc tu tập chính là sự giải thoát tham, sân, si. Khi tham, sân, si đã bị tận diệt thì nhu cầu nghe Pháp và hành Thiền vẫn còn có để được hiện tại lạc trú.
Nói tóm lại, những gì thuộc giải thoát, an lạc, hướng về giải thoát, an lạc thì gọi là chánh, là thiện. Tất cả công việc nói Pháp, nghe Pháp, hành Pháp đều nhằm vào mục tiêu giải thoát sau cùng ấy./.