KINH PHẬT VÀ CÁC NGHI THỨC
Thích Đạt Ma Phổ Giác biên soạn
Chùa Thiên Khánh
Nhà Xuất Bản Hồng Đức
LỜI GIỚI THIỆU
Thich Dat Ma Pho GiacChúng tôi biên soạn Kinh Phật và nghi thức cho người cư sĩ tại gia dựa trên nền tảng căn bản hai hệ thống Phật giáo Nam truyền và Bắc Truyền. Ở đây chúng tôi lựa chọn một số bài Kinh tiêu biểu mang đậm chất đạo đức và cách thức tu tâm sửa tính, để người Phật tử tại gia có thể đọc tụng hành trì đúng theo chánh pháp Phật-đà, nhằm chuyển hóa phiền muộn khổ đau, thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Kinh là gì? Kinh là lời Phật dạy bằng tiếng Phạn, nói cho đủ là Tu Đa La, dịch là Khế Kinh. Khế Kinh có nghĩa là khế lý và khế cơ. Khế lý là sao? Là luôn đúng với lý giác ngộ, giải thoát của chư Phật, tức là dù trải qua bao nhiêu thời đại, bao nhiêu sự thăng trầm, thịnh suy của cuộc sống, nhưng lời Phật dạy vẫn giúp ích cho con người biết cách làm chủ bản thân mà vươn lên, vượt qua cạm bẫy cuộc đời để sống bình yên, hạnh phúc. Khế cơ là khế hợp với tất cả mọi người, dù là người cổ xưa hay là người văn minh hiện đại, đều có thể áp dụng tu hành mà chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Ngày xưa, Phật nói Kinh tùy theo căn cơ, trình độ và sự hiểu biết của mọi người, bởi chúng ta huân tập nghiệp nhân không đồng nên Phật nói Kinh là “tùy bệnh cho thuốc”. Chúng sinh có quá nhiều bệnh, nên Phật dùng nhiều loại thuốc, nếu ai thích hợp với thuốc nào thì uống thuốc đó sẽ mau lành và mau hết bệnh. Người nói lại kinh này là thầy A Nan, Ngài là một trong mười vị đệ tử xuất cách nhất thời Phật còn tại thế, thầy có tài nhớ giỏi và nói lại không sai nội dung, nhờ có thầy xin Phật năm ba lần mà phái nữ mới được xuất gia tu học bình đẳng như nam giới.
Kinh này do Phật nói, vậy Phật là gì? Phật nói cho đầy đủ là Phật-đà, có nghĩa là người giác ngộ, người tỉnh thức, người luôn sống bằng trái tim yêu thương có hiểu biết. Nói gọn lại là Phật. Hành giả khi thấm nhuần giáo lý Phật-đà thì tấm lòng luôn rộng mở để bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ. Nhờ vậy, khi giúp đỡ tha nhân mà tâm ích kỷ được chuyển hóa, tâm tham lam được giải trừ, tâm bỏn sẻn được thay đổi, tâm buông xả được phát triển, tâm từ bi được tăng trưởng, và tâm vô ngã vị tha được sáng tỏ, bằng tình người trong cuộc sống.
Chúng tôi biên soạn Kinh Phật và nghi thức cho người tại gia nhằm mục đích giúp cho các thiện hữu tri thức cùng quý Phật tử gần xa khi đến chùa hoặc ở nhà, có thể tham khảo học hỏi, đọc tụng hành trì và ứng dụng lời Phật dạy vào trong đời sống hằng ngày mà biết cách làm chủ bản thân để vươn lên, vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Phần đầu tiên của Kinh Phật cho người tại gia giới thiệu khái quát về đạo làm người qua vần thơ 6 chữ, do chúng tôi trước tác và có chú giải, là cuốn sách nói về cẩm nang xử thế, nền tảng nhân đạo và cách thức làm người tốt theo lời Phật dạy.
Đạo làm người là sổ tay đối nhân xử thế cho giới trẻ, đặc biệt là giới thanh thiếu niên, mang đậm chất văn hoá Phật giáo Việt Nam. Tinh thần giáo dục đạo đức, văn hoá ứng xử, nếp sống gia đình, tương quan xã hội theo lời Phật dạy… mang đậm nét ứng xử văn hoá dân gian, đạo làm người đã trở thành sách gối đầu giường của nhiều gia đình trong thời hiện đại. Quyển sách đạo làm người được sự ủng hộ của rất nhiều Phật tử, các thiện hữu tri thức, các thầy cô giáo và các em học sinh.
Sự tương quan mật thiết của đạo làm người từ mối quan hệ thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái. Sự tôn kính, cúc cung, vâng lời, chăm sóc cha mẹ,….là ứng xử hiếu thảo, dựa trên nền tảng văn hoá biết ơn và đền ơn được Phật chỉ dạy trong các bản Kinh. Quan hệ anh chị em, bà con thân tộc, giao tiếp xã hội dựa trên sự tôn kính, tương nhượng, tương thân, tương ái, đậm chất vô ngã vị tha. Chân thành, trung thực, giản dị, khiêm tốn, vô ngã vị tha,…là những đức tính mà con người cần có để xây dựng một môi trường sống cùng vui vẻ hợp tác mang đậm chất tình người trong cuộc sống, không thấy ai là kẻ thù. Hướng thượng, phụng sự, hy sinh, dấn thân đóng góp, chia sẻ và giúp đỡ không phân biệt giống nòi chủng tộc, là những nhân cách cao quý vốn làm cho cuộc sống của ta trở nên ý nghĩa hơn. Giữ chữ tín với mọi người, không giao du với kẻ xấu, tiết độ trong ăn uống, làm chủ sự tiêu dùng, không xa hoa, lãng phí, không keo kiệt, ích kỷ; rộng lượng, bao dung…là những đức tính mang lại hạnh phúc…. và còn nhiều hơn thế nửa.
Đạo làm người là nền tảng đạo đức, có khả năng xây dựng mối quan hệ “tốt đạo đẹp đời”, nhằm thiết lập bình an, hạnh phúc được phát triển trong bền vững và lâu dài.
Kế đến là 12 lời nguyện chân chính của người Phật tử tại gia và vâng giữ năm điều đạo đức, thể hiện tinh thần tu học đúng chánh pháp nhằm động viên nhắc nhỡ mọi người sống đời thánh thiện, để làm tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đình người thân, và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.
Bài Kinh thứ nhất là bài Kinh nói về cuộc đời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong phần Kinh tụng hằng ngày cho người Phật tử tại gia Chùa Linh Xứng, chúng tôi giới thiệu bài Kinh thứ nhất nói về cuộc đời và sự nghiệp của đức Phật Thíchca Mâu-ni qua vần thơ tám chữ để mỗi hành giả cùng tham khảo và học hỏi. Người Phật tử chân chính, dù tu theo pháp môn nào cũng đều phải biết rõ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đã khai sáng ra đạo Phật có nguồn gốc lịch sử rõ ràng, hiện nay cả thế giới loài người đều công nhận. Thế cho nên ngày 15 tháng 12 năm 1999 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đều công nhận đại lễ Vesak là lễ hội văn hóa loài người mang biểu tượng hòa bình. Người Phật tử khi tu theo đạo Phật, đều phải tôn thờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni để được học hỏi, tu sửa, tưởng nhớ công ơn của ngài qua sự hướng dẫn của chư Tăng Ni. Nếu là người tu hành chân chính mà không thờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì chúng ta vô tình phỉ báng Phật pháp và không tôn trọng quý kính người sáng lập ra đạo Phật.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một tấm gương sáng ngời về đức tính từ-bi-hỷ-xả với tinh thần vô ngã vị tha, trong suốt quá trình 49 hoằng pháp độ sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán mà hàng hậu học chúng ta cần phải học hỏi và hành trì. Ngài không thấy ai là kẻ thù mà chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi, bởi đức tính từ bi hỷ xả với tinh thần bao dung và độ lượng trong sự tương kính.
Bài thứ hai và thứ ba là Kinh Phước Đức, Kinh Từ Tâm nằm trong tạng Kinh nguyên thủy, thuộc Tiểu Bộ Kinh, nói cho đầy đủ là Kinh Nhân Quả Phước Đức và Kinh Tâm Từ rộng lớn. Ở đây, nhân vật chính thưa hỏi đạo lý là người Trời, đại diện cho chư Thiên và nhân loại ở thế gian này. Vì muốn lợi ích cho nhiều người ở thế gian mà chư Thiên cõi trời đến thưa hỏi đạo lý với đức Phật. Thường thì chúng ta hay dùng hai chữ phước và đức đi đôi với nhau, nhưng hai từ này có ý nghĩa khác nhau. Phước là việc làm bên ngoài như giúp đỡ một ai đó, đức là cái tốt ngay bên trong, như khi bị người mắng chửi mà ta vẫn bình thản, an nhiên, không có tâm bực bội, khó chịu, hay buồn phiền người kia. Phước là những việc làm từ bên ngoài phát xuất từ ý nghĩ, lời nói, rồi dẫn đến hành động, như bố thí hay giúp đỡ một ai đó, đem đến an vui, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau. Nếu bây giờ ta không biết gieo trồng phước đức mà muốn hưởng phước báu là chuyện vô lý, không thể được. Chúng ta nên nhớ rằng, làm phước thì được phước, hưởng phước thì hết phước, biết rõ được cội nguồn của an vui, hạnh phúc thì ta càng làm phước nhiều hơn nữa. Một ngày ta có mặt trong cuộc đời là một ngày ta phải sống sao cho có ích cho mình và người, ta cố gắng không làm tổn hại cho ai. Ngược lại, người sống trong cảnh thiếu thốn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nợ nần chồng chất. Trong gia đình sống không biết kính trên nhường dưới, thường xuyên gây gỗ, bất hòa với nhau thì ta gọi là người thiếu phước đức.
Người làm phước là người biết làm việc thiện lành, tốt đẹp, luôn giúp đỡ, sẻ chia khi có nhân duyên, khi có điều kiện, nên rất được mọi người quý mến, ưa thích gần gũi. Người đã từng bố thí hay giúp đỡ nhiều cho nhân loại thì lúc nào cũng được quyền cao chức trọng và giàu sang danh giá. Người chuyên siêng năng, tinh cần tu hành, chuyển hóa nội tâm của mình được trong sạch nhờ biết giữ gìn giới pháp, tu tập thiền định để dứt trừ phiền não, tham-sân-si, người như vậy gọi là người có đức vì không bị tham-sân-si trói buộc.
Ở đây, đức Phật dạy cách thức làm phước và tu đức, nên gọi đầy đủ là Kinh Nhân Quả Phước Đức với tâm từ rộng lớn. Có phước thì được hưởng mọi nhu cầu vật chất đầy đủ, nhờ vậy mà ta khỏi lo cơm áo gạo tiền, khỏi phải bận bịu lo lắng về kế sinh nhai, do đó ta rất dễ dàng, thuận lợi trong việc tu hành để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.
Nói tóm lại, bản thân mình tốt thì gọi là đức, còn làm lợi ích cho người khác thì gọi là phước. Đức ở đây là nhờ có tâm từ bi hỷ xả rộng lớn, không phân biệt người thân hay kẻ thù. Tâm từ được thể hiện qua lòng bao dung và độ lượng, giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi và nhàm chán với tinh thần vô ngã vị tha.
Bài Kinh thứ tư là Kinh Suy niệm về nghiệp, đức Phật đã chỉ cho mọi người, chính ta là chủ của bao điều họa phúc mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Nhờ thường xuyên quán chiếu suy xét từng ý nghĩ, lời nói và hành động trong chánh niệm tỉnh giác, ta mới thấu rõ được kiếp nhân sinh mà thương đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống.
Những thăng trầm được mất trong cuộc đời với muôn vàn sự sai khác và quá sâu kín, nhiệm mầu vượt khỏi tầm hiểu biết của con người; nên khi sống, họ không biết mình từ đâu đến, và sau khi chết không biết mình đi về đâu. Chính vì vậy, họ đành chấp nhận giao phó cuộc đời mình cho đấng tối cao quyết định. Để rồi, con người trở thành kẻ phục vụ cho đấng thần linh thượng đế, và chấp nhận an phận nơi niềm tin đó một cách si mê, mù quáng, nên thế nhân thường gọi là tín đồ.
Chỉ có chân lý và cái thấy đúng như thật do sự trải nghiệm trong tu tập bằng cách quán chiếu, soi sáng lại chính mình mới giúp ta thoát khỏi sai lầm này, mà biết cách làm chủ bản thân. Mình làm lành được hưởng phước báo tốt đẹp, mình làm ác chịu quả báo sa đọa khổ đau, chân lý đó chính là luật nhân quả nghiệp báo. Phật dạy: “Tất cả mọi sự sai biệt giữa con người và con người là do nghiệp của ta đã tạo ra từ thân miệng ý, tâm suy nghĩ chân chính, miệng nói lời thiện lành, thân đóng góp sẻ chia, thì được hưởng quả an vui hạnh phúc; ngược lại, gieo nhân xấu ác thì bị quả sa đọa khổ đau, không ai có quyền xen vô chỗ này để định đoạt và sắp đặt, nên có người tốt, kẻ xấu là do mình tạo ra”.
Bài Kinh thứ năm là Kinh người áo trắng, Phật dạy đạo đức tu học cho người cư sĩ tại gia. Chúng tôi biên soạn và chú giải bản Kinh Người Áo Trắng, để giúp cho người cư sĩ tại gia, trước nhất là có niềm tin chân chính đối với Tam bảo mà phát nguyện gìn giữ năm điều đạo đức.
Đây là bản kinh gối đầu nằm cho người cư sĩ tại gia, người Phật tử chân chính hãy nên tụng đọc, nghiền ngẫm tư duy và tu tập, sẽ thấm nhuần yếu chỉ của Kinh mà sống đời bình an, hạnh phúc trong từng phút giây.
Nếu ai thực hiện được những lời dạy chân chính của Phật, thì chứng được quả vị Thánh đầu tiên trong tứ quả Thanh-văn, tức không còn bị đọa lạc vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Người tại gia chứng được quả vị thứ nhất Tu-đà hoàn thì phá được kiết sử thân kiến, giới cấm thủ và nghi. Thường thì con người thế gian lấy bản ngã làm tâm điểm, nhân danh đấng thần linh thượng đế, để tạo ra sự bất công và muốn chiếm hữu, nên đã gây ra nhiều tội lỗi cho muôn loài vật.
Tất cả những điều này là do cái thấy biết sai lầm của một số người, họ lạm dụng sự thiếu hiểu biết của nhân sinh mà áp đặt số mệnh, để con người phải chấp nhận phục tùng một cách mù quáng như một tín đồ, mà không có quyền góp ý xây dựng trên tinh thần vô ngã vị tha, để cùng nhau sống hòa hợp.
Trong sự chấp ngã, bám víu vào cái ta và của ta rồi dẫn đến chiếm hữu, sự bám víu vào cái thân vật chất này ai cũng coi trọng nó, kẻ nào chạm đến sẽ bị phản kháng dữ dội. Cái ta ban đầu chỉ là sự bất giác của một vọng niệm được khởi lên và dính mắc vào đó, đến khi thành hình rồi thì nó cần một nền tảng vật chất, để dựa vào đó mà hiện hữu. Nền tảng đó chính là sự hiện hữu và tồn tại cái thân này.
Chúng ta bám víu vào thân cho đó là ta, là của ta rồi nâng niu, chăm sóc bảo vệ cho nó, đây gọi là “thân kiến”. Khi ăn thì tìm món ngon vật lạ cho ta, khi uống thì tìm những thứ ngon ngọt theo sở thích… Khi chúng ta mặc thì tìm kiếm những quần áo tốt đẹp có thương hiệu nổi tiếng, để cho ta mặc. Ở thì phải xây nhà cao cửa rộng, nguy nga tráng lệ, có đẳng cấp sang trọng, quý phái để cho ta ở. Xe thì phải mua loại đắt tiền có giá trị từ bạc tỉ trở lên để cho ta đi. Đồ dùng thì phải mua sắm đủ thứ tiện nghi hiện đại, trang hoàng lộng lẫy đẹp mắt để cho ta ngắm nhìn và mong nhiều người khác khen tặng.
Khi chúng ta chấp chặt vào cái ta ảo tưởng không thật có này thì việc xấu ác nào chúng ta cũng có thể làm được, chúng ta sẵn sàng giết cha, giết mẹ để bảo vệ cái ta giả có này. Đức Phật dạy: Do chúng ta không có sự trải nghiệm trong học hỏi và tu chứng nên thường lầm chấp thân này là ta, là của ta. Khi cái ta ảo tưởng có mặt thì cái “của ta” cũng theo đó mà phát sinh, rồi luyến ái bảo thủ chấp giữ muốn cái gì cũng là của riêng mình. Những gì tốt đẹp dễ có lợi cho mình thì ta thu thập, tích lũy, và muốn chiếm hữu, duy trì cho được bằng mọi cách. Cái gì không ưa thích thì ta tìm cách loại bỏ, khử trừ, xa lánh, hủy diệt và giết hại lẫn nhau. Cái ta nếu được phát triển theo chiều hướng tốt đẹp sẽ làm lợi ích cho nhiều người, ngược lại cái ta được mở rộng theo chiều tiêu cực thì tệ nạn xã hội tràn lan gây thiệt hại cho nhân loại.
Thực tế, nếu chúng ta có tu học một chút, ta sẽ thấy rõ thân tâm đều vô thường và hoàn cảnh hiện tại chẳng có gì là ta và của ta, mà chỉ có cái ta tạm bợ vì nó sinh, già, bệnh, chết. Từ cái thấy thân kiến là cái thấy sai lầm về thân, tức chấp vào sự hiện hữu của cơ thể con người là ta, là của ta, nên từ đó bắt đầu sinh ra luyến ái và muốn chiếm hữu. Ai đụng đến cái ta này thì có sự phản kháng mãnh liệt, do đó dấy khởi phiền não tham sân si, mà dẫn đến tranh đấu, hủy diệt lẫn nhau không thương tiếc.
Quan niệm về thân kiến này sẽ trường tồn mãi mãi và chỉ có hai con đường để ta chọn lựa, một là lên thiên đàng hưởng phước báo tối cao, hai là xuống địa ngục chịu khổ đau lâu dài. Đó là cái thấy sai lầm do không có sự thể nghiệm thực tế, không có sự trải nghiệm bản thân, mà làm cho con người đánh mất chính mình vì vô minh chấp ngã. Do gìn giữ giới pháp được trọn vẹn và tin sâu nhân quả, hành giả dễ dàng vào thiền định và nhờ thường xuyên chiêm nghiệm quán chiếu sâu sắc, nên phát sinh trí tuệ mà phá được kiết sử về thân kiến, tức chấp thân tâm làm ngã, nhờ vậy tham lam, sân giận, si mê luyến ái không còn tác động mạnh mẽ như trước kia nữa.
Kế đến là phá được giới cấm thủ đây cũng là quan niệm sai lầm, một số người họ tu và thực hành theo cách sống của loài chó, có người thì đứng một chân, giơ một tay họ cho rằng tu như vậy mau giác ngộ, giải thoát. Và cuối cùng phá được kiến chấp sai lầm là nghi. Nghi là nghi ngờ, không tin mình có khả năng làm chủ bản thân, không tin nhân quả, không tin pháp Tứ diệu đế và không tin tâm mình là Phật. Người cư sĩ tại gia khi đã có niềm tin bất thối chuyển đối với Tam bảo không bao giờ lui sụt và gìn giữ giới pháp trọn vẹn, từ trong tâm tưởng cho đến hành động không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối hại người và không uống rượu say sưa hoặc sử dụng các chất kích thích độc hại thì dễ dàng phát sinh định lực, nhờ vậy phá bỏ được ba thứ kiết sử trên. Người này, Phật dạy đã vào dòng Thánh, tức nhập lưu chứng quả Thánh thứ nhất trong Tứ quả Thanh văn, chỉ còn bảy lần qua lại cõi nhân gian rồi nhập Niết-bàn giải thoát.
Yếu chỉ Kinh Người Áo Trắng rất cao sâu và vi diệu. Thứ nhất là không giết hại mà còn mở lòng từ bi thương xót bình đẳng mọi loài. Thứ hai là không lấy của không cho mà còn hay bố thí giúp đỡ người khác và cúng dường người đáng kính. Thứ ba là không tà dâm mà còn khuyên nhủ mọi người sống chung thủy, để bảo vệ hạnh phúc gia đình mình và người khác. Thứ tư là không nói dối hại người mà còn hay nói lời chân thật. Thứ năm là không nói lời thô lỗ, cộc cằn, mắng chửi mà còn hay nói lời ái ngữ, hiền hòa dễ thương. Thứ sáu là không nói lời đùa chơi vô ích mà hay nói lời có ích lợi cho mọi người. Thứ bảy là không nói lời vu khống đổ tội cho người khác mà còn nói lời động viên, khuyến khích, an ủi mọi người cùng kết nói yêu thương, sẻ chia cuộc sống để cùng nhau sống đời bình yên, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại.
Ngoài ra, người cư sĩ tại gia phải còn quán niệm về Phật thật sâu sắc, để thể nhập tâm sáng suốt và lòng từ bi hỷ xả của Ngài. Quán niệm về Pháp để thấy lời dạy của Phật, giúp cho mọi người vượt qua biển khổ sông mê. Quán niệm về Tăng là đoàn thể sống an vui, hạnh phúc theo tinh thần lục hòa, để chúng ta cố gắng nương tựa mà tu học. Và cuối cùng là quán niệm về giới pháp chân chính giúp cho ta có tín tâm vững chắc, nhờ vậy người cư sĩ tại gia phá bỏ được ba kiết sử sai lầm về thân, giới cấm thủ và nghi, mà sống an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Năm bài Kinh đầu là Kinh Cuộc đời đức Phật, Kinh Phước đức, Kinh Từ tâm, Kinh suy niệm về nghiệp và Kinh Người áo trắng chúng tôi biên soạn thành một nghi thức tụng niệm theo hệ thống một. Từ bài Kinh thứ sáu là Kinh Bồ-tát Quán Thế Âm, Kinh Thiện sanh, Kinh Phân biệt nghiệp báo và Kinh Lời dạy cuối cùng chúng tôi biên soạn thành một nghi thức tụng niệm theo hệ thống hai.
Bài Kinh thứ sáu là phẩm Phổ môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, chúng tôi trích dẫn ra đây và mạnh dạn đặt lại tên là Hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm, có chú giải để mọi hành giả hiểu được ý nghĩa và nội dung, thông qua ba mươi hai ứng hóa thân đi vào cuộc đời cứu khổ ban vui với tinh thần “tốt đạo đẹp đời”.
Với hạnh nguyện lắng nghe Bồ-tát Quán Thế Âm lấy tứ nhiếp pháp làm phương tiện độ sinh: Một là bố thí, hai là ái ngữ, ba là lợi hành, bốn là đồng sự.
-Bố thí: Bồ-tát thấy chúng sinh tham lam, bỏn sẻn, keo kiệt, ích kỷ, nhỏ mọn, chất chứa riêng tư là nhân của đau khổ nên rộng rãi phát tâm bố thí, giúp đỡ sẻ chia để diệt trừ tâm địa hẹp hòi, san tham. Bồ-tát sẵn sàng đem tài sản, của cải hoặc sức lực của mình bố thí, giúp đỡ mỗi khi cần thiết. Nhờ sự giúp đỡ tận tình không biết nhàm chán, nên Bồ-tát dễ dàng gần gũi và được nhiều người tôn trọng quý kính, do đó dễ nhiếp phục họ quay về với chính pháp mà rời xa ác đạo.
-Ái ngữ: Bồ-tát luôn dùng lời ngon ngọt, hòa nhã, dịu dàng, nhỏ nhẹ, dễ thương. Bồ-tát khéo dùng lời nói từ ái, hiền hòa nhưng chân thật nên dễ thành công trong công cuộc độ sinh.
-Lợi hành: Bồ-tát luôn tích cực làm việc lợi ích chúng sinh không phân biệt kẻ sang người hèn chứ không phải nói suông vô ích, nhờ vậy Bồ-tát được nhiều người tin tưởng và sau đó dùng chánh pháp Phật-đà để giúp chúng sinh hướng thiện, dứt ác làm lành, quay về bờ giác.
-Đồng sự: Bồ-tát luôn siêng năng tinh tấn, giỏi biết nhiều ngành nghề để cùng làm việc với mọi người. Nhờ thường xuyên sống gần gũi và làm việc mà Bồ-tát có cơ hội thuyết pháp độ sinh giúp mọi người tin sâu nhân quả, tin lời Phật dạy và tin mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc. Bồ-tát Quán Thế Âm là điểm tựa tinh thần vững chắc để mọi người bắt chước học hỏi và noi theo gương sáng của ngài, từ một con người phàm phu tục tử có thể trở thành một Thánh nhân cao quý nhờ biết cách làm chủ bản thân.
Điểm đặc biệt để mọi người lưu ý là bài kinh này mang ẩn dụ rất sâu sắc, người Phật tử chân chính nếu không dùng trí tuệ soi sáng thì dễ lầm tưởng Bồ-tát Quán Thế Âm có thể “ban phước giáng họa” và “cầu gì được nấy”. Thái độ cầu khẩn, van xin tha lực của người tín ngưỡng dân gian không phải là nội dung chính mà Phật muốn hướng dẫn và chỉ dạy.
Cốt lõi của phẩm Phổ môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đức Phật nói rõ và xác quyết rằng, con người do sống với ảo tưởng quá nhiều nên mới sinh ra đau khổ lầm mê. Tưởng tượng trong mê lầm là nhân sinh ra mọi bế tắc khổ đau trong cuộc đời. Quán Thế Âm còn có nghĩa là Quán Tự Tại vì ngài soi thấy 5 Uẩn đều “không”, có nghĩa là thân tứ đại này do 4 chất đất-nước-gió-lửa hoà hợp lại mà thành nên bản chất của nó là “không thật ta”, vì phải già-bệnh-chết, thấy như thế thì liền qua hết thảy khổ ách. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy 6 căn là nhân của luân hồi sinh tử và 6 căn cũng là nhân của giải thoát. Sau khi Phật bảo 25 vị Thánh trình bày chỗ tu chứng của mình xong, Phật dạy Bồ-tát Văn-thù chọn lựa căn viên thông để tu. Cuối cùng, Bồ-tát chọn lựa “Nhĩ căn” là viên thông hơn cả. Đây là lối tu “Phản Văn Văn Tự Tánh” của Bồ-tát Quán Thế Âm, chữ “phản” ở đây có nghĩa là ngược lại. Thay vì từ xưa đến giờ chúng ta chạy theo âm thanh, có tiếng là có nghe, không tiếng là không nghe, quên mất tính nghe thường hằng của mình. Bây giờ biết tu rồi chỉ nhớ mình có tính biết sáng suốt, nghe tất cả mà không dính mắc vào âm thanh riêng biệt nào. Thế cho nên, Bồ-tát Văn Thù khuyên đại chúng và ngài A nan: “Xoay cơ quan nghe của ông trở lại nghe tính nghe của mình, thành tựu tính nghe là đạo vô thượng. Đây là con đường vào cửa Niết Bàn của tất cả chư Phật nhiều như số vi trần.” Nên Kinh nói trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm là công đức thù thắng hơn tất cả. Vậy chúng ta trì niệm bằng cách nào? Bằng cách phản quán lại tính nghe chân thật của mình, do đó không bị âm thanh bên ngoài chi phối mà hằng sống với tính nghe. Trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm là phương pháp tu tập, quán chiếu cuộc đời để thấy rõ được bản chất thực hư của nó, nên mỗi hành giả tự độ mình vượt qua các khổ đau đang có mặt. Ngoài ra, Kinh này còn nói lên tình thương bao la, rộng lớn của một vị Bồ-tát Quán Thế Âm trong mỗi hành giả với cách thức độ sinh đa dạng của 32 ứng thân khác nhau. Bồ-tát độ sinh dưới nhiều hình thức từ một ông vua, hay tể tướng, cho đến kẻ bần cùng.
Chúng sinh cần nhu cầu nào thì Bồ tát ứng hiện điều kiện đó để cho phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của mọi người.
Bài Kinh thứ bảy là đạo hiếu Phật giáo thông qua Kinh Thiện Sinh về đạo làm người. Ở đây, Phật dạy trách nhiệm người cư sĩ tại gia, các bổn phận như sau: Người Phật tử là người biết tu học thực tập theo hạnh giác ngộ, giải thoát cho chính mình, nhờ vậy biết cách làm chủ bản thân, không bị các tham muốn dục vọng thấp hèn chi phối. Chúng ta là người học Phật phải dám chiụ trách nhiệm về những ý nghĩ, lời nói và hành động mà mình đã làm.
Người Phật tử chân chính là người phải xây dựng cho mình một ý chí và nghị lực mạnh mẽ, sống trong môi trường xã hội nhưng luôn biết cách tu dưỡng, đạo đức bản thân để ngày càng hoàn thiện chính mình nhiều hơn.
Trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, khả năng làm chủ bản thân của con người trở nên mong manh vì bị kẹt trong hệ lụy kinh tế xã hội… Và các sự ràng buộc khác trong đời sống, muốn thoát ra khỏi dòng đời oan trái, là cả một sự khó khăn vô cùng, mà người thiếu ý chí, không có niềm tin về nhân quả, niềm tin về chính mình khó có thể làm được.
Vậy, Bổn phận của người tại gia là những gì? Đã làm người, ai cũng có trách nhiệm và bổn phận liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau để bảo tồn sự sống. Phật là bậc đại giác ngộ hoàn toàn, đã chứng được tam minh lục thông nhờ siêng năng tu giới, định, tuệ và công hạnh độ sinh nhiều đời không biết mệt mỏi, nhàm chán. Chúng ta muốn làm người Phật tử chân chính, tất phải nghe những lời Phật dạy, rồi suy gẫm quán chiếu và tu sửa mà làm theo những việc Phật đã làm, đi theo con đường Phật đã đi. Do đó, người Phật tử tại gia, có những trách nhiệm và bổn phận như sau:
1-Bổn phận đối với chính mình.
2-Bổn phận đối với gia đình, người thân.
3-Bổn phận đối với cộng đồng xã hội.
a- Bổn phận đối với chính mình Ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, người thân chúng ta phải làm sao xứng đáng là một người Phật tử chân chính, bằng cách tu tâm dưỡng tánh, để cho thân tâm được an lạc, bình yên hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Ngoài việc quy y Tam bảo, vâng giữ năm điều đạo đức, tin sâu nhân quả, tu mười điều lành tránh xa các việc xấu ác, sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng và cuối cùng là phước huệ song tu, hành Bồ-tát đạo cho đến khi nào thành Phật viên mãn mới thôi.
b- Bổn phận đối với gia đình, người thân Người Phật tử tại gia còn có gia đình người thân, nên phải có trách nhiệm làm sao vuông tròn cả hai bên chồng và vợ. Đã làm người thì ai cũng có cha mẹ, vợ hay chồng, con cái, bà con thân thích tạo nên quyến thuộc nội ngoại hai bên, cùng nhau gìn giữ và phát triển giống nòi nhân loại. Đối với gia đình người thân, quý Phật tử phải khéo sắp xếp trong cách đối nhân xử thế, để làm tròn bổn phận giữa hai bên với nhau mà vẫn giữ được hòa khí vui vẻ, bằng tình người trong cuộc sống.
c- Bổn phận đối với cộng đồng xã hội -Phật dạy ân nghĩa là gốc của con người Ân quốc gia xã hội và anh linh các anh hùng nghĩa tử: Chúng ta sống trong một đất nước được yên ổn, ấm no và hạnh phúc, không bị chiến tranh là nhờ quốc gia và xã hội góp phần duy trì và gìn giữ, cho nên chúng ta phải làm tròn bổn phận như sau: Làm tròn bổn phận công dân: Trước tiên là một công dân là phải đóng góp vào việc giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ, sự độc lập của quốc gia, dân tộc, góp phần bảo vệ các quyền lợi chánh đáng của người dân. Phát huy sáng tạo kỹ nghệ, kinh doanh thương mại làm cho đất nước ngày càng phát triển hưng thịnh, bền vững và lâu dài. Phát huy văn hóa và bảo vệ những truyền thống tốt đẹp dân tộc: Người Phật tử cũng là một công dân, có bổn phận gìn giữ phát huy nền văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, một đất nước có trên bốn ngàn năm lịch sử văn hiến, và lấy đạo thờ ông bà tổ tiên làm nền tảng, kết hợp với đạo đức tâm linh Phật giáo để duy trì di sản văn hóa ông cha ta để lại, chúng ta cần phải gìn giữ và phát huy thêm những truyền thống tốt đẹp đó. Giữ vẹn biên cương bờ cõi, bảo toàn độc lập: Nhờ có quốc gia và các anh linh các anh hùng nghĩa tử hy sinh giữ gìn, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ. Một đất nước nếu bị mất chủ quyền, mất độc lập thì dân chúng sẽ bị sưu cao, thuế nặng, làm lụng vất vả mà không có quyền bình đẳng về con người.
Đây là một bản kinh nguyên thủy, ngắn gọn, xúc tích ghi lại lời Phật dạy cách đối nhân xử thế, cách làm tròn bổn phận và trách nhiệm của người Phật tử đối với bản thân, gia đình và xã hội, rộng hơn là Phật dạy cách xây dựng phát triển một xã hội hài hòa, bền vững và lâu dài về mọi mặt trong cuộc sống.
Bài thứ tám là Kinh Báo ân cha mẹ, đây là bài Kinh mang tính triết lý sâu sắc với những lời dạy đạo đức làm người đối với cha mẹ và con cái, để người con biết cách báo hiếu đền đáp công ơn cha mẹ hiện đời và nhiều đời. Trong thời kỳ mạt pháp, con người ít sống hiếu thuận, hòa kính với cha mẹ. Do người đời chạy theo tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều mà không làm chủ sáu giác quan mà tạo mười nghiệp xấu ác, gây bất hạnh khổ đau cho nhiều người. Làm được thân người là việc khó, thân thể lành lặn, đủ sáu giác quan là một điều khó hơn. Thông minh, sáng suốt làm bậc tài khí của một quốc gia lại càng khó hơn nữa. Dù không gặp Phật ra đời, nhung ta được nghe chính pháp, gặp được thầy lành bạn tốt lại càng khó hơn mà nổ lực, thực tập chuyên cần lại càng quý hơn nữa. Thế cho nên khi còn trẻ khỏe, chúng ta phải học hỏi thực tập lời Phật dạy mà tìm cách vượt qua biển khổ sông mê chớ để thời gian luống trôi vô ích. Tín ngưỡng dân gian, trẻ vui nhà già vui chùa là quan niệm sai lầm làm cho con người tự đánh mất chính mình, do đó sống ỷ lại vào gia đình người thân, mê tín thần thánh mà không biết cách làm chủ bản thân, nên bị thầy tà bạn ác chi phối và sống đời không đạo đức.
Bài thứ 9 là Kinh lời dạy cuối cùng của đức Phật hay còn được gọi là Kinh di chúc của Phật trước lúc Ngài nhập Niết-bàn tại rừng Ta-la song thọ, Kushinagar. Bài kinh được xem là tinh hoa cội gốc của người xuất gia, người cư sĩ tại gia cần phải tham khảo đọc tụng để thấu rõ chính pháp Phật-đà như ngón tay chỉ mặt trăng và chiếc bè đưa mọi người đến bờ giác ngộ, giải thoát. Bài pháp đầu tiên đức Phật Thích Ca Mâu Ni, lúc mới chuyển pháp luân độ cho 5 anh em Kiềutrần-như, đến khi lần thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la. Phật dạy những người đáng độ ta đã độ hết rồi, ở giữa hai cây Ta-la song thọ ngài sắp nhập Niết-bàn. Bấy giờ là lúc nửa đêm, Phật vì hàng bốn chúng đệ tử mà lược thuyết những chỗ cốt yếu trong giáo pháp. “Tỳ-kheo các ông! Sau khi ta nhập diệt, nên tôn trọng, cung kính đối với giới luật, như ở chỗ tối tăm được thấy ánh sáng; như người nghèo được của báu. Nên biết rằng giới luật là thầy của các ông, cũng như ta đây còn trụ thế, không hề khác biệt. Phải tự mình luôn giữ chánh niệm, tâm ngay thẳng cầu thoát ly sinh tử. Không được che giấu lỗi lầm, hay làm những việc khác thường và dùng lời nói hăm dọa để mê hoặc sự sợ hãi của người khác. Đối với bốn món được cúng dường nên thọ dụng có chừng mực, biết vừa đủ. Ứng dụng và hành trì Kinh này trong đời sống hiện tại, giúp chúng ta chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc, chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm tình thành thánh trí. Khi thực tập kinh này sẽ giúp cho người xuất gia và cư sĩ tại gia đi đúng chính đạo mà biết cách làm chủ bản thân ngay tại đây và bây giờ.
Bài thứ mười là bài sám hối sáu căn do vua Trần Thái Tông biên soạn, Hòa thượng Thanh Từ dịch trước nhất là nhắc nhỡ chúng ta buông hết những lầm mê do chấp ngã gây ra, để quay trở lại với tâm thanh tịnh sáng suốt. Đây là một điểm sáng tạo đặc biệt của dòng Thiền hiện đại Việt Nam chứ không phải tầm thường.
Sám hối sáu căn, là pháp sám hối trực tiếp từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý nhằm giúp chúng ta thấy được sai lầm ngay nơi thân này mà tìm cách sửa sai, chứ chẳng tìm cầu nơi khác. Chúng tôi biên soạn thành nghi thức tụng niệm hệ thống ba. Như vậy, từ xưa đến nay chúng ta sống theo lầm mê hư vọng, nên quên mất bản tâm chính mình, không biết đâu là tà đạo, đâu là chánh đạo. Sự thật thì ai cũng đều có bản tâm chân thật, nhưng vì chúng ta chỉ sống với những tâm vọng tưởng, những tâm hư dối mà sống trong đau khổ lầm mê, do chạy theo âm thinh sắc tướng bên ngoài.
Pháp sám hối sáu căn này nhắc nhỡ mọi người khéo thức tỉnh trở về chỗ thấy, nghe, hay biết ngay nơi thân này thông qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Khi chúng ta mê lầm chạy theo trần cảnh bên ngoài là sắc thinh hương vị xúc pháp rồi tạo nghiệp sinh tử luân hồi không có ngày thôi dứt. Thế cho nên pháp sám hối sáu căn là cách thức nhằm nhắc nhỡ chúng ta biết ăn năn, hối lỗi để quay trở về bản tâm chân thật là tâm Phật sáng suốt của chính mình. Nhờ vậy, mọi hành giả sẽ biết cách thoát khỏi bao đau khổ lầm mê, từ vô thủy kiếp đến nay do quên mất bản tâm chân thật. Pháp sám hối sáu căn này được áp dụng rộng rãi trong các Thiền Viện tu theo hệ phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam do Phật hoàng Trần Nhân Tông đời Trần sáng lập. Hòa thượng Thích Thanh Từ đã có công phục hưng lại dòng Thiền hiện đại Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam, nhằm hướng dẫn cho bốn chúng tu học theo tinh thần dân tộc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam.
Chúng tôi, chúng con là hàng hậu học có phúc duyên to lớn được xuất gia tại Thiền Viện Thường Chiếu, tu theo Thiền phái Trúc lâm Yên Tử Việt Nam do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập. Một dòng thiền hiện đại Việt Nam, tu theo tinh thần Phật giáo Việt Nam do con người Việt Nam sáng lập mà Hòa thượng Thượng Thanh Hạ Từ đã có công phục hưng lại.
Do nhân duyên đầy đủ Thượng tọa Thích Nhật Từ đã nhận lời mời của Ủy ban Huyện Hà Trung và Phật giáo Tỉnh Thanh Hóa phục hưng lại ngôi Chùa Linh Xứng Hà Ngọc-Hà Trung-Thanh Hóa do Thái úy Lý Thường Kiệt xây dựng năm 1085- 1089 nay trở thành phế tích. Chúng tôi được thầy Nhật Từ mời về lãnh trách nhiệm hướng dẫn bốn chúng tu học theo đúng chính pháp Phật-đà và toàn quyền duy trì nếp sống Tăng đoàn Chùa Linh Xứng. Thầy Nhật Từ hiện tại đang phục hưng lại tinh thần Phật giáo nguyên chất, tu theo lời Phật dạy có nguồn gốc lịch sử lấy giáo lý Tứ diệu đế làm nền tảng căn bản, thực hành Bát chánh đạo là phương pháp thực tập chuyển hóa, bàn bạc trong các kinh điển Phật giáo nguyên thủy và các kinh điển Phật giáo phát triển lấy giới, định, tuệ làm đầu. Chúng tôi, chúng con có được phúc duyên đầy đủ dung hợp lại lời Phật, Tổ và Bồ-tát thành một pháp tu căn bản mang tính thiền học, từ thấp đến cao phù hợp với tín ngưỡng nhân gian miền Bắc Trung bộ đất nước Việt Nam.
Thứ nhất tu theo lời Phật dạy lấy bát chánh đạo làm nền tảng tu hành, chánh kiến, chánh tư duy thuộc về trí tuệ. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về giữ giới. Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thuộc về định lực. Tám nguyên tắc hành động Bát Chánh Đạo không phải là một tiến trình sắp xếp theo thứ tự nhất định, như việc yếu tố này phải đứng trước yếu tố kia.
Trên phương diện thiết lập để tu học, tám yếu tố này được chia ra làm ba nhóm:
– Nhóm giới luật được liên kết nhau bởi chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng.
– Nhóm định lực được kết hợp hài hòa bởi chánh tin tấn, chánh niệm và chánh định.
– Nhóm trí tuệ được chiêm nghiệm và tu tập bởi chánh kiến và chánh tư duy.
Nói rộng ra là Bát Chánh Đạo, nói gọn lại là Giới-Định-Tuệ. Do đó, trí tuệ là một phương tiện tu tập thiện xảo, hầu giúp mọi người thức tỉnh để mở mang tâm trí, và thấy biết đúng như thật. Bát Chánh Đạo là tám con đường ngay thẳng, hay là tám phương pháp nhiệm mầu mật thiết, luôn giúp người Phật tử đạt đến an lạc, hạnh phúc ngay trong đời sống hằng ngày. Trong đạo Phật, Bát Chánh Đạo được xem như phương pháp số một, giúp chúng ta biết cách dứt trừ phiền muộn, khổ đau để đạt đến an lạc hạnh phúc, tự tại và giác ngộ, giải thoát. Thứ hai là tu theo đường lối của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam do Phật hoàng Trần Nhân Tông đời Trần sáng lập. Cương yếu tu hành lấy “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”, nghĩa là quay lại chính mình đó là phận sự gốc chẳng từ bên ngoài mà được.
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, triều đại nhà Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm, cũng như chính sách hộ quốc an dân, khuyên mọi người giữ năm giới và tu mười điều lành, nhờ vậy đất nước phát triển vô cùng tốt đẹp. Năm 1299, vua Nhân Tông xuất gia tại chùa Hoa Yên núi Yên Tử, lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà, sau này vua đổi hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà ngày nay mọi người thường tôn xưng là Phật hoàng Trần Nhân Tông và là người sáng lập chính thức thiền phái Trúc Lâm.
Từ đó trở đi, thiền phái trúc lâm Yên Tử trở thành nổi tiếng, thế lực lan rộng khắp mọi nơi. Một ông vua đã từng dẫn dắt muôn dân đánh bại cuộc xâm lăng của nhà Nguyên, để đem lại hòa bình và thịnh trị cho dân tộc Việt Nam. Trúc Lâm tuy học hỏi và nhận được yếu chỉ thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ thờ ngài làm thầy, nhưng giữ giới luật nghiêm minh. Ngài được tôn danh là Phật hoàng Trần Nhân Tông, Ngài là vị Tổ đã sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng Thiền thuần túy của Phật giáo Việt Nam.
Một nét đặc sắc nổi bật của Phật hoàng Trần Nhân Tông, đó là thái độ khoan dung của Ngài đối với một số quan lại đã viết biểu dâng cho nhà Nguyên xin đầu hàng. Đức vua đã không truy cứu trách nhiệm xử tội họ mà ra lệnh đốt bỏ các tờ biểu đó. Tấm lòng khoan dung độ lượng và sẵn sàng tha thứ của nhà vua quả là hiếm có, đã cảm hóa được họ tâm phục, khẩu phục. Mười bốn năm trên ngôi vua, năm năm trên ngôi Thái thượng hoàng, Phật hoàng Trần Nhân Tông luôn là vị minh quân có một không hai trong lịch sử nước ta. Ngài đã biết đem giáo lý Phật-đà áp dụng cho toàn dân, nhờ vậy mọi người sống ấm no hạnh phúc và thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống, không thấy ai là kẻ thù. Khi còn là hoàng thái tử, Ngài đã hấp thụ được tinh ba của thiền do Tuệ Trung Thượng Sĩ chỉ dạy nên đã trường trai và muốn ít biết đủ để sống đời đạo hạnh.
Và đến khi làm vua, Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh tu hành và thường đến chùa Tư Phước trong đại nội để tu tập. Mặc dù phải giải quyết rất nhiều bộn bề công việc của đất nước, nhưng Ngài vẫn giữ vững ý chí lập trường để tu hành. Sau khi hoàn thành trách nhiệm của một vị minh quân đối với giang sơn xã tắc, năm 1299 Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, để xuất gia tu hành trên núi Yên Tử. Điều này gợi cho chúng ta cảm nhận rằng Phật hoàng Trần Nhân Tông là Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân làm vua ở Việt Nam để cứu giúp nhân dân ta thoát khỏi khổ nạn của giặc ngoại xâm thời đó. Chính vì vậy, đối với Phật giáo Việt Nam, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời là một nét son vàng sáng chói đem lại bình yên hạnh phúc cho toàn dân. Hòa Thượng Thanh Từ ngày hôm nay đã có công rất lớn là khôi phục lại Thiền phái Trúc Lâm, đây là bước ngoặc quan trọng đang giúp mọi người trong cả nước, quy hướng về Phật giáo gầy dựng con người sống làm việc theo tinh thần từ bi hỷ xả mà cùng nhau phát triển một đất nước văn minh, giàu mạnh về vật chất lẫn tinh thần bằng trái tim thương yêu và hiểu biết.
Đọc lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ, chúng ta có thể hãnh diện vì Ngài là một vị Thái tử chuẩn bị lên ngôi vua, lại dám bỏ ngai vàng để đi tu, điều này rất hiếm có trong lịch sử nhân loại. Người khai sáng ra đạo Phật của chúng ta là người sắp hưởng địa vị cao tột nhất thế gian mà Ngài vẫn không màng đến, ra đi tìm đạo để giác ngộ cho mình và tất cả chúng sinh. Ngày hôm nay, Phật giáo đã được truyền bá sâu rộng khắp thế giới là một dấu ấn quan trọng để mọi người biết cách chuyển hóa khổ đau thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Chúng ta càng hãnh diện hơn nữa, ở Việt Nam một ông vua đi tu. Đang làm vua đủ uy quyền thế lực muốn gì được nấy, hưởng thụ đầy đủ các dục lạc thế gian, vậy mà vua Trần Nhân Tông lại đem tất cả sự nghiệp giao cho con để đi tu. Tư cách xuất gia của Ngài là một điểm son sáng chói, khiến chúng ta càng tự hào hãnh diện hơn nữa.
Đức Phật là một Thái tử đi tu, ông Tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm thuần chất Việt Nam của mình là một ông vua đi tu, còn chúng ta là những thành phần nào trong xã hội? So với đức Phật và Sơ tổ Trúc Lâm, các Ngài ở trong hoàn cảnh cao sang quyền quý mà vẫn dứt ra được để thành tựu viên mãn. Những việc rất khó làm mà các Ngài đã làm được, thì ngày nay chúng ta là những kẻ hậu học phải tâm quyết nhiều hơn nữa trong việc tu hành của mình bằng cách giữ giới, thiền định, bố thí và dùng trí tuệ để soi sáng phiền não nhiễm ô tan hòa vào chân tâm hay phật tính sáng suốt của mình.
Như vậy về mặt lịch sử, chúng ta hãnh diện thấy Phật Tổ cũng là một con người như tất cả mọi người, nhờ quyết chí kiên trì bền bỉ trong việc tu hành nhờ thấy được hạnh phúc thế gian chỉ là tạm bợ không dài lâu bởi sự vô thường đổi thay của nó. Nhờ vậy, chúng ta sẽ tin chắc rằng nếu quyết chí tu hành, cố gắng buông xả không chấp trước vào ta, người, chúng sinh hay thân tâm hoàn cảnh là thật, thì sẽ đạt được kết quả tốt đẹp…. Phật giáo thời Trần rất hưng thịnh nhờ các vị vua biết tu thiền, Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ tại gia nhờ tham thiền mà được ngộ đạo, khai mở Phật tâm ngay nơi thân này. Cho nên vua Trần Thánh Tông mới gởi Thái tử Trần Khâm (Trần Nhân Tông) khi còn nhỏ cho Tuệ Trung Thượng Sĩ hướng dẫn tu thiền. Khi học hỏi gần xong sắp trở về triều, trước lúc từ giã Thái tử hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ: “Bạch Thượng Sĩ, pháp yếu của Thiền tông là gì? “. Thượng Sĩ trả lời: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. “Phản quan tự kỷ” là soi sáng hay xem xét lại chính mình. “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” có nghĩa xem xét lại chính mình là việc bổn phận, chẳng từ nơi khác mà được. Đó là câu châm ngôn bất hủ mà trong giới nhà Thiền Việt Nam thường xử dụng để điều phục tâm mình. (Trích yếu chỉ Thiền phái Trúc Lâm)
Thứ ba là tu theo tinh thần Bồ-tát Quán Thế Âm lấy “Phản văn văn tự tánh” làm đầu, chữ phản ở đây có nghĩa là ngược lại. Thế cho nên trong Kinh Lăng Nghiêm, Bồ-tát Văn Thù khuyên đại chúng và ngài A nan: “Xoay cơ quan nghe của ông trở lại nghe tính nghe của mình, thành tựu tính nghe là đạo vô thượng. Đây là con đường vào cửa Niết Bàn của tất cả chư Phật nhiều như số vi trần.” Quán Thế Âm có nghĩa là quán sát xem xét lắng nghe tiếng khổ của tha nhân để tùy duyên cứu độ. Ngài luôn quán chiếu cuộc đời lắng nghe âm thanh theo nguyên lý, duyên khởi, vô ngã, vị tha, nhờ vậy biết cách giúp chúng ta vượt qua lo lắng sợ hãi, thoát khỏi sự ràng buộc của khổ đau. Quán chiếu cuộc đời thực tế có 5 cách: Một là quán chân thật, hai là quán thanh tịnh, ba là quán trí tuệ rộng lớn, bốn là quán tình thương, năm là quán cứu khổ. Mỗi hành giả nương vào năm pháp quán này, mà vươn lên làm mới lại chính mình vượt thoát mọi khổ đau ràng buộc trong cuộc đời. Quán chân thật để thấy rõ bản chất cuộc đời là một dòng chuyển biến, theo nguyên lý duyên khởi, vô ngã, vô thường. “Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt. ” Tất cả mọi hiện tượng sự vật không có thực thể cố định, nhờ quán chiếu như vậy nên chúng ta dễ dàng buông xả, không chấp trước dính mắc về thân tâm, ta, người, hoàn cảnh.
Quán thanh tịnh để thấy rõ bản chất của các pháp không nhơ sạch, đúng sai, tốt xấu, nhờ vậy chúng ta dứt tưởng nên hành giả sống lạc quan không dính mắc hai bên.
Quán trí tuệ rộng lớn, là pháp quán cần yếu của mỗi hành giả. Không có trí tuệ chúng ta dễ rơi vào si mê lầm lạc, muốn có trí tuệ mỗi hành giả phải biết thiền định để loại trừ rác rưởi tà niệm. Thế cho nên đất tâm nếu không, thì mặt trời trí tuệ tự sáng. Hành giả khi có trí tuệ thì thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách nên gọi là Quán Tự Tại.
Hai pháp quán sau gộp chung lại gọi là quán từ bi, tâm từ bi có thể phát xuất từ tấm lòng vị tha của mỗi con người. Nhờ quán từ bi mỗi hành giả thấu suốt nguyên lý duyên khởi, vô ngã tính không thực thể của các pháp. Nhưng có tính biết sáng suốt hằng tri, hằng giác nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Do biết rõ thật giả phân minh, thế cho nên Bồ-tát đi vào đời luôn đem niềm vui, tình thương chân thật bình đẳng với tất cả chúng sinh, dù đó là người thù.
Ngoài ra, tinh thần của Bồ-tát Quán Thế Âm trong mỗi hành giả bằng cách thức độ sinh đa dạng với 32 ứng thân khác nhau. Bồ-tát độ sinh dưới nhiều hình thức từ một ông vua, thủ tướng hay tổng thống cho đến mọi thành phần trong xã hội. Chúng sinh cần nhu cầu nào thì Bồ-tát ứng hiện với điều kiện đó để cho phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của mọi người. Con đường tỉnh thức Phật, Tổ và Bồ-tát là phương pháp tu hành được dung hợp từ thấp đến cao mà vẫn giữ cốt lỗi của Phật giáo lịch sử, tinh thần Phật giáo dân tộc Việt Nam và tinh thần “tốt đạo đẹp đời” với phương châm lắng nghe và cùng nhau hiến tặng niềm vui, san sẻ nỗi khổ niềm đau bằng trái tim có hiểu biết.
Mùa an cư kiết hạ năm 2016
Phật giáo Tỉnh Thanh Hóa
Kính ghi
Sa môn Thích Đạt Ma Phổ Giác