Thích Thiện Siêu
CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo – 2002
CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT (Tiếp Theo)
18. Tôn giả Kiều-phạm-ba-đề diệt độ.
Trước khi A-nan chưa chứng A-la-hán, không được dự hội, có người đề nghị nên mời Tôn giả Kiều-phạm-ba-đề, đệ tử Tôn giả Xá-lợi phất, vị ấy rành và thuộc lòng lời của Phật nhiều lắm. Hiện giờ đang ở trên trời, xin đề nghị mời xuống chủ trì để kiết tập. Thể theo lời đề nghị trên, Tôn giả Đại Ca-diếp cho một vị hạ tọa lên trời mời Tôn giả Kiều-phạm-ba-đề về tham dự kiết tập. Tôn giả Kiều-phạm-ba-đề mới hỏi vị hạ tọa rằng:
– Thưa Tôn gia, Chuyển pháp luân tướng Hòa thượng của tôi là Xá-lợi-phất bây giờ ở đâu?
– Thưa Tôn giả, Hòa thượng của Tôn giả đã diệt độ rồi.
Nghe vậy, Tôn giả giật mình. Tôn giả Kiều-phạm-ba-đề hỏi tiếp:
– Đức Thế Tôn, bổn sư của Hòa thượng tôi hiện giờ ở đâu?
– Đức Thế Tôn cũng diệt độ rồi.
– Thế Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, là bạn thân của Hòa thượng tôi thế nào?
– Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cũng đã diệt độ.
Nghe xong, Tôn giả Kiều-phạm-ba-đề dịu dàng nói:
– Thôi thôi như thế này là con mắt thế gian bị tiêu tan rồi. Than ôi? Đức Đại sư diệt độ, Hòa thượng bổn sư tôi là Xá-lợi-phất cũng diệt độ. Bạn thân của Hòa thượng tôi là Đại Mục-kiền-liên cũng diệt độ, thì tôi còn ở nơi Xá-lị viên này làm gì nữa! Tôi cũng xin diệt độ.
Tôn giả nói xong, liền bay lên hư không, tự xuất hỏa quang tam-muội đốt lấy thân. Trong khi đó, nước từ trong thân chảy xuống và trong dòng nước trong xanh ấy vang lên bài kệ:
Kiều-phạm-ba-đề khể thủ lễ,
Diệu chúng đệ nhất đại đức Tăng,
Văn Phật diệt độ ngã tùy diệt,
Tượng vương dĩ khứ tương tử tùy.
Tạm dịch:
Kiều-phạm-ba-đề xin cúi đầu đảnh lễ,
Những vị đại đức Tăng ở trong chúng của Phật.
Nghe đức Thế Tôn đã diệt độ, thì tôi cũng xin diệt độ theo,
Như voi chúa đi thì voi con cũng đi theo.
Bài kệ này cũng có chỗ khác ghi:
Kiều-phạm-ba-đề khể thủ lễ,
Chúng trung thanh tịnh đại đức Tăng,
Tượng vương dĩ khứ tượng tử tùy.
Nhất đăng diệt nhi nhất đăng tục.
Nghe xong bài kệ ấy, vị Hạ tọa trở về bạch đại hội rõ.
19. Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên tìm đạo.
Trong Kinh, Luật thường hay nhắc đến hai vị đệ tử của đức Phật là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Vậy hai Tôn giả này là aì? Có duyên gì mà đến làm đệ tử của đức Thế Tôn và được đức Thế Tôn cưng như con ruột?
Từ khi xuất gia theo Phật, hai vị Tôn giả Xá lợi-phất và Mục-kiền-liên là hai đệ tử lớn trong chúng đệ tử của Phật. Tôn giả Xá-lợi-phất là trí tuệ đệ nhất, còn Tôn giả Mục-kiền-liên là thần thông đệ nhất. Hai vị này trước kia là anh em bạn đồng tu ở trong một môn phái ngoại đạo thuộc phái Lục sư. Tương truyền rằng, Tôn giả Xá-lợi-phất là người cực kỳ thông minh. Khi bà mẹ của Tôn giả mang thai Tôn giả mà bà đã biện tài vô ngại. Trong nhà, có ông em tên Trường trảo Phạm-chí, cũng là một nhà luận sư nổi tiếng, nhưng biện luận không lại bà. Ông ta mới suy nghĩ rằng, chị mình mới mang thai mà nó đã ảnh hướng đến bà như vậy, huống hồ khi sinh nó ra thì ai luận chiến với nó cho nổi. Nghĩ vậy cho nên ông quyết chí đi học để sau này luận chiến cho hơn hai mẹ con mới thôi.
20. Trường trảo Phạm chí luận chiến.
Ông Trường trảo từ đó tìm thầy học luận suốt ngày suốt đêm, đến nỗi không có thì giờ cắt móng tay và quên cả cạo râu tóc. Móng tay vì vậy cứ dài ra thườn thượt, cho nên người đời gọi là Trường trảo Phạm-chí (ông Phạm-chí có móng tay dài).
Khi học xong trở về thì Tôn giả Xá-lợi-phất cũng đã lớn khôn và đang tu ở chỗ Phật. Nghe nói như vậy thì ông tìm đến tinh xá chỗ Phật ở. Khi đến chưa gặp cháu Xá-lợi-phất thì gặp ngay đức Thế Tôn. Gặp Phật, ông muốn luận chiến với Phật. Phật biết ý ông cho nên Ngài hỏi ông: “Này Hiền giả, Hiền giả đến đây muốn bàn luận vấn đề gì”. Ông nói: Thưa Tôn giả Cù-đàm, tôi có một chủ trương, đức Thế Tôn nói xin Hiền giả cho biết tôn ý. Ông nói: Tôi chủ trương “dĩ nhất thiết bất thọ vi tông” (nghĩa là: cái tông chỉ của tôi là không chấp nhận một tông chỉ nào hết). Ông nghĩ xướng lên như vậy thì chính Phật cũng chịu, chứ làm sao mà bác được. Ý ông nghĩ, thế nào mình cũng thắng Phật. Nhưng bất đồ đức Phật hỏi lại ông: “Dĩ nhất thiết bất thọ vi tông” đó, ông có chấp nhận không? Nếu nói chấp nhận thì thành có quan điểm hẳn hoi, nếu nói không thì cũng như bao nhiêu người khác, có gì đặc biệt! Thế là ông chịu thua. ông nghĩ Thầy đã như vậy, cháu ta nay là đệ tử của đức Cù-đàm, ta làm sao tranh luận cho hơn được? Quả thật, khi gặp cháu là Xá-lợi-phất, Tôn giả lại thuyết cho ông nghe và thế là cậu bị cháu thuyết phục. Từ đó, cả cậu lẫn cháu đều làm đệ tử trong giáo pháp của Phật. Sau khi quy y, ông có tên là Câu-hi-la, chính là cậu của Xá-lợi-phất, hay Trường trảo Phạm chí, là tên cũ của ông.
21. Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên xuất gia.
Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kỉền-liên kết bạn tu với nhau trong một phái của ngoại đạo nổi tiếng thời bấy giờ là Lục sư ngoại đạo.
Lịch sử cổ Ấn Độ cho biết, giai đoạn trước khi đức Phật ra đời, thiên hạ tôn sùng Vệ-đà của Bà-la-môn giáo. Nhưng đến thời đức Phật, tư tưởng Vệ-đà không còn thịnh hành nữa. Một số các triết gia đã không còn tin tưởng tư tưởng Vệ đà và đã xướng ra thuyết riêng như nhóm Lục sư ngoại đạo chẳng hạn. Trong Trường A-hàm, kinh Sa-môn quả có nói rất rõ. Kinh ghi lại quan điểm tư tưởng của sáu phái ngoại đạo đó. Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên lúc đầu cũng tu theo một trong sáu phái ngoại đạo, nhưng không thấy kết quả. Hai vị mới ước hẹn với nhau, nếu một trong hai người, người nào đắc đạo trước thì thông báo cho nhau biết, hoặc tìm ra chân lý trước cùng thông tri cho nhau hay.
Tôn giả Xá-lợi-phất một hôm đang trên đường đi, gặp Tỳ-kheo Mã-thắng (A-thuyết-thị), trông thấy dáng đi khoan thai và đĩnh đạc từ tốn, mặt mày tươi tắn hoan hỉ, không lộ vẻ gì âu lo hết. Nhìn qua hình dáng bên ngoài của vị ây, Tôn giả Xá-lợi-phất đoán chắc trong tâm của vị ấy cũng không có gì vướng mắc sầu khổ, nên mới lân la đến tìm hỏi:
– Thưa Hiền giả, thầy của Hiền giả là ai? Thầy tu ở đâu? Tôi trông thầy bình thản quá ?
– Thưa Hiền giả, thầy tôi là Đại Sa-môn Cù-đàm.
– Thế thầy của Hiền giả dạy những gì?
– Thầy tôi dạy nhiều lắm, nhưng tôi không tiếp thu hết. Tôi chỉ xin tóm tắt bài kệ mà tôi còn nhớ được:
Chưpháp tùng duyên sinh,
Diệc tùng nhân duyên diệt,
Ngã Phật Đại Sa-môn,
Thường tác như thị thuyết.
Tạm dịch:
Các pháp từ duyên sinh,
Cũng lại theo duyên diệt,
Đại Sa-môn của tôi,
Thường hay dạy như thế.
Bài kệ trên diễn tả lý nhân duyên, tùng duyên sinh tùng duyên diệt. Nhân duyên hòa hợp hư vọng danh sanh, nhân duyên biệt ly hư vọng danh diệt, chứ không có cái gì thật sinh cũng không có cái gì thật diệt. Sinh diệt đều do nhân duyên hòa hợp mà thôi. Cái nhà khi đủ nhân duyên hòa hợp gọi là nhà sinh; khi nhân duyên biệt ly gọi là nhà diệt. Nhưng thật ra các pháp không có cái sinh cũng không có cái gì diệt thiệt, ngôi nhà cũng thế.
Nghe câu nói lrên, Xá-lợi-phất vốn là người thông minh, đã có kinh nghiệm tu hành với ngoại đạo nên nhận thức rất nhanh. Nghe xong chợt ngộ, liền trở về nói cho Tôn giả Mục-kiền-liên biết và rủ bạn mình đến xin quy y với đức Phật. Từ đó, hai vị chính thức là đệ tử của đức Thế Tôn. Đồng thời đem 250 đệ tử cùng tu theo Phật. 250 vị này nhập với 1.000 đệ tử của 3 anh em Tôn giả Ca-diếp, hợp thành 1.250 vị Tỳ-kheo, thường có mặt trong các thời thuyết pháp mà trong kinh thường nhắc tới. Đây chủ yếu là các vị Thiện lai Tỳ-kheo, trực tiếp được Phật độ cho xuất gia, ngoài ra còn nhiều vị khác nữa.
Cá tính của Tôn giả Xá-lợi-phất thông minh nhưng cũng rất khiêm tốn, chứ không phải thông minh mà kiêu căng. Thế thường thông minh hay kiêu căng, nhưng đối với Tôn giả thì trái lại. Xưa kia người ta hay nói “đại biện nhược tội”, tức biện tài già dặn chừng nào thì in như người ngọng nói không ra lời. Tôn giả Xá-lợi-phất cũng ở trong trường hợp đó. Chính vì ít nói nên trong chúng có người coi thường, không kính phục.
22. Tôn giả Xá-lợi-phất bị vu oan.
Một hôm, Tôn giả xin Phật cho qua một phương nọ để bố hóa. Đức Phật cho phép.
Tôn giả vừa đi ra khỏi tinh xá thì có một vị Tỳ-kheo tới bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn, Tôn giả Xá-lợi-phất làm nhục con nên bây giờ cố ý tránh mặt bằng cách xin Thế Tôn đi nơi khác bố hóa, chớ thật tình người như Tôn giả mà bố với hóa gì được”. Thế Tôn liền cho gọi Tôn giả Xá-lợi-phất lại và hỏi: “Này Tôn giả, ông có làm nhục vị Tỳ-kheo này không?”. Tôn giả Xá-lợi-phất thưa: “Bạch Thế Tôn, từ ngày con theo Thế Tôn đến giờ, theo lời Thế Tôn dạy, con nhất tâm tu hành, con không dám làm nhục ai hết, dù đó là một chú tiểu. Con đã nguyện nhẫn nhục và nhẫn nhục như đất đã nhẫn nhục, dù cho thế gian có đổ gì trên đó cũng được. Con nguyện làm cái chổi để quét sạch đất, con không phân biệt gì hết, con nguyện quét sạch cấu uế cho chúng sinh, nỡ nào con lại mạ lị một vị đồng phạm hạnh là Tỳ-kheo đáng kính?”. Đức Thế Tôn liền cho gọi vị Tỳ-kheo kia lại để đối chứng.
Khi đến trước đức Thế Tôn và Tôn giả Xá-lợi phất, vị Tỳ-kheo kia thấy ân hận và nói: “Con thấy Thế Tôn thường khen ngợi và quý mến Tôn giả quá nên con chịu không nổi và nói dối thế thôi, chứ thật ra việc đó không có”.
Tôn giả là trí tuệ đệ nhất, nên mỗi khi Thế Tôn thuyết pháp cho chúng Tỳ-kheo, Ngài chỉ tổng thuyết, còn phần biệt thuyết thì Ngài sai Tôn giả giảng rộng cho Đại chúng hiểu. Cho nên trong Chánh pháp, đức Thế Tôn là Vua pháp (Pháp vương), còn Tôn giả là Tướng pháp (ông tướng của Chánh pháp) hay còn gọi là Chuyển pháp luân tướng. Như vậy, trong giáo pháp của Phật, Phật là vua, Xá-lợi-phất là tướng. Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên là hai người bạn thân thích nhau từ khi còn ở bên ngoại đạo, cho đến khi qua làm đệ tử Phật cũng vậy. Tôn giả Xá-lợi-phất có tính khiêm cung chừng nào thì Tôn giả Mục-kiền-liên có tính bộc trực chừng ấy.
23. Tôn giả Mục-kiền-liên bị hại.
Một ngày kia trên đường hành hóa trở về tinh xá, giữa đường gặp phái lõa thể Ni-kiền-tử muốn gây sự với Tôn giả Xá-lợi-phất. Nó chặn đường hỏi rằng: Này tu sĩ, trong chúng chánh mạng có Sa-môn quả không? Tôn giả Xá lợi phất biết nó muốn gây sự nên trả lời lòng vòng như vầy: “Chúng chánh mạng Sa-môn quả không, chúng Thích-ca Sa-môn quả có A-la-hán còn tham dục thì đời không có người ngu si”. (Sa-môn quả là Tu-đà-hoàn, Tư-đà hàm, A-na-hàm và A-la-hán). Nghe nói vậy, ngoại đạo tưởng Tôn giả ca ngợi họ nên thả cho đi. Đến khi Tôn giả Mục-kiền-liên đi tới, nó hỏi lại câu đó. Tôn giả trả lời: Trong chúng chánh mạng các ngươi làm gì có Sa-môn quả! Thế là chúng hè nhau đánh cho nhừ tử, máu me tung tóe, nằm ngất bên vệ đường
rồi chúng bỏ đi. Tôn giả Xá-lợi-phất đi một quãng xa nhìn lui không thấy Mục-kiền-liên đâu hết, lòng nghi có chuyện chẳng lành nên quay lại tìm. Quả nhiên thấy Tôn giả Mục-kiền-liên máu me đầm đìa nằm ngất tại đó. Tôn giả liền dùng y quấn quanh người Tôn giả Mục-kiền-liên và dìu về tinh xá. Khi về đến tinh xá, Tôn giả còn nói được vài ba câu. Các vị Tỳ-kheo xúm đến vấn an và săn sóc. Có vị nói: “Chao ôit Tôn giả thần thông quảng đại, phép lạ hơn người, cớ sao khi bị vây mà không thoát đi?”. Tôn giả nói: “Khi nghiệp lực đã đến, một chữ Thần nhớ cũng không k.ịp, huống chi là chữ Thông, làm sao mà phát thông được” (Nghiệp lực đáo thời, thần chi nhất tự thượng bất năng ức, huống phát thông tai).
Nghiệp lực đến, trở tay không kịp. Truớc cảnh đó, đức Phật cho người trà tì nhục thân Tôn giả Mục-kiền-liên. Cũng từ đó Thế Tôn tuyên bố ba tháng sau Ngài sẽ Niết-bàn.
Nghe câu tuyên bố đó, Tôn giả Xá-lợi-phất lấy làm băn khoăn bùi ngùi, cho nên Tôn giả xin phép đức Thế Tôn trở về nhà thăm mẹ đã gần 100 tuổi và xin nhập Niết-bàn tại quê nhà. Đức Thế Tôn im lặng. Ngài sai chúng Tỳ-kheo đưa tiễn Tôn giả ra đi, một số nối gót về quê để vĩnh biệt Tôn giả, một số trở về tinh xá để hầu hạ Thế Tôn và tiếp tục tu học. Khi Tôn giả về quê thăm mẹ, thuyết pháp cho bà nghe, bà chứng đuợc pháp nhãn thanh tịnh. Và Tôn giả cũng không nỡ nhìn cảnh Thế Tôn diệt độ trước mình, nên sau khi độ cho mẹ xong, Tôn giả nhập Niết-bàn.
24. Kiết tập Kinh và Luật.
Khi đức Phật nhập diệt rồi, cuộc kiết tập mới bắt đầu. Cuộc kiết tập tụng lại Kinh tạng và Luật tạng.
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li 80 lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
Nội dung của kiết tập có nghĩa như thế nào?
Kiết tập: Phạn tự là Samgati, Trung Hoa dịch là Chúng đẳng tụng; nghĩa là cả chúng cùng nhau tụng lại lời đức Phật dạy. Tụng bằng cách nào? Tôn giả Ưu-ba-li hay Tôn giả A-nan-đà ngồi giữa chúng đọc rõ từng câu như: “Ngày hôm đó, tại chỗ đó, tôi có nghe đức Phật dạy như thế này, thế này… nếu đại chúng có vị nào nghe Ngài dạy khác, xin phát biểu; nếu không ai phát biểu, mà im lặng, thì cho qua”. Tiếp tục tụng đoạn khác cũng y như trên cho đến hết, nên gọi là chúng đẳng tụng. Cuộc kiết tập đầu tiên chưa có văn tự gì hết. Kiết tập bằng miệng đọc lên rồi ai nấy đều ghi nhớ trong kí ức mà thôi. Kí ức của các vị toàn là các bậc A-la-hán thì ghê gớm lắm. Nhớ như
vậy cốt để mà tu tập, chứ không có mục đích gì khác.
25. Tôn giả Ưu-ba-li tụng Luật.
Như vậy, về Luật bộ, đầu tiên là Bát thập tụng do Tôn giả Ưu-ba-li tụng, rồi sau đó nó biến ra 5 bộ nữa:
1. Đàm-vô-đức bộ (Pháp tạng bộ) truyền luật Tứ phần, gồm 60 cuốn.
2. Tát-bà-đa bộ (Hữu bộ) truyền luật Thập tụng, có 60 cuốn.
3. Di-sa-tắc bộ truyền luật Ngũ phần, có 30 cuốn, thuộc (Hóa địa bộ).
4. Ca-diếp-di bộ truyền trì Giải thoát luật, gồm 50 cuốn, thuộc Căn bản nhất thiết hữu bộ.
5. Ma-ha Tăng-kỳ bộ truyền luật Tăng-kỳ; có 40 cuốn, thuộc Đại chúng bộ và Độc tử bộ.
Trong thời Phật, Ngài không phân ra 5 bộ Luật như trên; nhưng trong quá trình hành hóa, tùy chỗ phạm lỗi mà Ngài chế ra giới để cho hàng đệ tử biết và lần sau đừng có phạm nữa. Đó là khởi nguyên của Luật. Sau khi đức Phật diệt độ, cuộc kiết tập lần thứ nhất chỉ tụng thuần nhất là 80 lần ngồi tụng mà thôi. Từ đó về sau, qua sự truyền trì của Tôn giả Đại Ca-diếp (Maha Kàsyapa), A-nan (Ànanda), Mạt-điền-địa (Madhyàntika), Thương-na-hòa-tu (Sànavàsa), Ưu-ba-cúc-đa (Upagupta) đều thuần nhất vị, chưa phân dị kiến về giới luật. Đến Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa là vị thứ 5, nhằm khoảng thời gian sau Phật diệt độ 110 năm, lúc đó A-dục vương ra đời. A-dục vương là vị vua
lúc đầu cai trị rất tàn ác nên dân chúng gán cho cái tên là Hắc A-dục vương (Vua A-dục đại ác). Nhưng về sau cải ác tùng thiện, quy y Tam bảo và trở thành một Phật tử thuần thành, hộ trì Phật pháp một cách đắc lực nhất, gọi là Pháp A-dục vương.
26. Nguyên nhân phân hóa Luật.
Giáo pháp đức Phật do vậy cũng bị điêu linh các vị Tỳ-kheo mỗi đoàn du hóa một phương, không kết tụ với nhau được. Do đó mà từ nơi một bộ Bát thập tụng luật lại chia ra năm nơi năm nhóm. Năm nhóm này ghi nhớ và đọc tụng theo năm cách riêng và việc hành trì cũng khác, nên tạo ra năm bộ Luật khác nhau. Năm bộ Luật đó là do 5 đệ tử của Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa nắm giữ và truyền tụng. Năm bộ Luật đó là:
1. Đàm-vô-đức bộ truyền trì Tứ phần luật.
2.Tát-bà-đa bộ truyền trì Thập tụng luật.
3. Di-sa-tắc bộ truyền trì Ngũ phần luật.
4. Ca-diếp-di bộ truyền trì Giải thoát luật.
5. Bà-ta-phú-la bộ truyền trì Ma~ha Tăng-kỳ luật.
Năm nhóm trên đều truyền trì Luật tạng riêng mà phát sinh thành ra 5 bộ như trên.
Năm bộ Luật vừa nêu, về phần chính thì giống nhau, chỉ có sai khác về Ba-dật-đề và Chúng học pháp.
27. Năm bộ Luận giải thích Luật.
Ngoài những bộ Luật chính ở trên, sau này có những bộ gọi là bộ Luận về Luật. Năm bộ Luận đó là gì?
1. Tì-ni mẫu luận, 8 quyển (thất lruyền).
2. Ma-đắc-lặc-già luận, gọi đủ là Tát-bà-đa-bộ Tì-ni Ma-đắc-lặc-già luận, 10 quyển, do Lưu Tống Tăng-già-bạt-ma dịch.
3. Hai bộ luận trên dựa vào Tát-bà-đa bộ, tức căn bản Nhất thiết hữu bộ mà giải thích những điều trong bộ Luật đó mà tạo ra Luận này.
4. Thiện Kiến luận, hay còn gọi là Thiện Kiến luật Tỳ-bà-sa, 18 quyển, do Tiêu Tề Tăng-già-bạt-ma dịch; cốt giải thích Tứ phần luật.
5. Tát-bà-đa luận hay còn gọi là Tát-bà-đa Tì-ni Tỳ-bà-sa, 9 quyển, mất tên người dịch, cốt giải thích Thập tụng luật.
6. Minh liễu luận, hay còn gọi là Luật nhị thập nhị minh liễu luận, 1 quyển, do Trần Chân Đế dịch, cốt giải thích giới luật thuộc Chính lượng bộ.
Hai bộ này đều thuộc Chính lượng bộ, tức một trong 20 bộ phái Tiểu thừa Phật giáo.
* Nội dung của Luận tạng:
Khi nói Luật tạng là nói chung cả 5 bộ Luật, đó gọi là Luận tạng.
Sự hành trì về Luật tại Ấn Độ chắc cũng có sự sai khác chút đỉnh. Khi thì các Tổ dùng bộ này, khi thì dùng bộ khác, nên đôi lúc tưởng chừng trong nội dung của nó có sai khác.
Nhưng tùy theo địa phương và hoàn cảnh, các Tổ có thể du di phần Học pháp. Vì vậy, khi truyền qua Trung Hoa, Tổ Đạo Tuyên mới lấy một bộ làm căn bản cho việc truyền Luật, nên Tổ đã dùng bộ Tứ phần luật, phát triển thành Luật tông mà Tổ là vị khai sáng. Từ đó, Tứ phần luật được diễn giảng, giải thích và truyền bá rất mạnh.
Việt Nam chúng ta từ trước tới nay cũng áp dụng Tứ phần luật để hành trì.
28. Nội dung Tứ phần luật.
Tứ phần luật, 60 cuốn, do Diêu Tần Phật-đà da-xá và Trúc-phật-niệm cùng dịch, chia 4 phần:
1. Phần một, gồm 21 cuốn: Nội dung chuyên nói 250 giới của Tỳ-kheo.
2. Phần hai, gồm 16 cuốn: 9 cuốn đầu nói 348 giới điều của Tỳ-kheo-ni; 7 cuốn sau quy định việc thọ giới, thuyết giới, An cư, Tự tứ…
3. Phần ba, có 12 cuốn: gồm các chương quy định việc Tự tứ tiếp theo, Bì cách, y, dược, Casina y, việc xảy ra ở Câu-diệm-di, ở Chiêm-ba, kiết-ma Ha-trách, về người, về tội phú tàng, giá, phá Tăng, diệt tránh, về pháp Tì-ni và về Pháp.
4. Phần bốn, gồm 11 cuốn: là các chương nói về phòng xá, tạp, ngũ bách kiết tập, thất bách kiết tập, điều bộ Tì-ni, Tì-ni Tăng nhất.
Tóm lại, Tứ phần luật gồm có 2 phần chính:
a. Phần thứ nhất nói về giới bổn của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni.
Giới bổn của Tỳ-kheo có 250 giới; Tỳ-kheo-ni có 348 giới. Theo Nam truyền Luật tạng, Tỳ-kheo có 227 điều, Tỳ-kheo-ni có 311 điều. Các giới điều tuy có khác, nhưng chỉ khác phần chi tiết, còn phần nội dung chính vẫn giống nhau.
b. Phần thứ hai nói về 20 Kiền-độ (20 chương) :
1. Chương thọ giới: thuyết minh về việc thọ giới.
2. Chương thuyết giới: thuyết minh về nghi thức thuyết giới.
3. Chuơng An cư. thuyết minh về ý nghĩa và sự vỉệc An cư.
4. Chương Tự tứ: nói về ý nghĩa tác pháp Tự tứ.
5. Chương bì cách: khai cho các Tỳ-kheo gặp hoàn cảnh đặc biệt được dùng các loại da thuộc.
6. Chương nói về y: thuyết minh cách may y và sử dụng nó.
7. Chương nói về dược liệu: thuyết minh về cách dùng thuốc để chữa bệnh.
8. Chưong nói về y Casina: nói về cách thọ y và xả y Casina (công đức y).
9. Chương nói về việc xảy ra ở Câu-diệm-di: nói về việc các Tỳ-kheo tranh cãi nhau, và 3 loại cử tội: 1. Bất kiến cử, là cử cái tội có lỗi mà nói không thấy, không nhận tội; 2. Bất sám cử: là cử cái tội đã nhận tội mà không chịu sám hối; 3. Ác kiến bất xả cử: là cử cái tội có ác kiến mà không chịu bỏ.
10. Chương nói về việc xảy ra ở Chiêm-ba: nói về các loại kiết-ma như pháp và phi pháp.
11. Chương nói về Ha-trách: nói việc chế định 7 thứ Ha-trách, tức 35 việc mà một Tỳ-kheo đã phạm tội thì không được làm.
12. Chương nói về người: thuyết minh phạm tội Tăng tàn, lục dạ biệt trú, phép bản nhật trị và cách sám trừ nghiệp quả, sám diệt phi pháp.
13. Chương phú tàng: nói các thứ tướng của tội phú tàng và cách diệt trừ tội.
14. Chương nói về giá: nói về cách ngăn ngừa và cử tội người khác, khi cử phải đủ 5 pháp là tri thời, chân thật, lợi ích, nhu nhuyến và từ tâm.
15. Chương phá Tăng: nói việc tội phá Tăng.
16. Chương diệt tránh: nói về Thất diệt tránh (7 phép diệt sự tranh cãi).
17. Chương nói về Ni: nói việc Ni chúng thọ giới, thuyết giới.
18. Chương nói về pháp: nói các oai nghi, pháp thức đi lại… của Tỳ-kheo.
19. Chương nói về phòng: nói việc sửa sang, tu bổ phòng xá.
20. Chương tạp: thuyếl minh xen lẫn hết thảy các chương và cách trì giới.
Đạo Tuyên Luật sư trong “San bổ tùy cơ yết-ma” tóm tắt 20 chương thành 10 điều:
1. Chương tập pháp: nói tổng quát về sự duyên thành, không thành của các pháp kiết-ma .
2. Chương kết và giải giới.
3. Chương nói pháp thọ các giới.
4. Chương nói áo, thuốc, thọ trì và thuyết tịnh.
5. Chương nói các pháp thuyết giới.
6. Chương nói về chúng An cư.
7. Chương nói về pháp Tự tứ.
8. Chương nói về chia áo (của Tăng đã chết).
9. Chương nói sám hối các tội.
10. Chương nói việc cốt yếu của vị Trú trì Phật pháp.
29. Chỉ trì, tác trì.
Giới luật thì nhiều, nhưng không ngoài hai môn: chỉ trì và tác trì.
a. Chỉ trì: Là đình chỉ, đình chỉ không làm các điều ác Tức quy định về điều giới, đó là giới, thuộc chỉ trì.
b. Tác trì: Là tu thiện, tức là các điều thiện. Tức quy định về các pháp kiết-ma, đó là Luật, thuộc tác trì.
Ví dụ: Thực hành giới bổn là chỉ trì; giữ gìn 20 kiền độ là tác trì.
30. Chuyện xảy ra ở Câu-diệm-di (Kosambiya).
Đó là chuyện cãi lộn nhau giữa hai thầy Tỳ-kheo. Kinh dạy rằng: Có 2 thầy Tỳ-kheo Thượng tọa Pháp sư và Luật sư. Thượng tọa Tỳ-kheo pháp sư thì giỏi về pháp như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Bát chánh đạo… nhưng lại ít chuyên về luật. Trái lại, Thượng tọa Luật sư thì thông thạo, am hiểu về luật, rành mạch về luật như kiết giới, An cư, Tự tứ thì rất rành, nhưng khi hỏi về kinh thì cũng ít thông tuệ cho lắm. Cho nên mỗi Thượng tọa đều có sự thiên trọng khác nhau. Lẽ tất nhiên, Thượng tọa Luật sư chuyên giữ luật, nhất cử nhất động đều hành trì đúng luật; trái lại, Thượng tọa Pháp sư cũng giữ luật, nhưag không bằng vị Luật sư, mà chỉ chú trọng về Pháp là chính.
Kinh dạy rằng: Hôm đó, Thượng tọa Pháp sư vào nhà tắm, xong việc quên đổ nước thừa trong chậu; vị Luật sư thấy vậy mới hỏi vị Pháp sư kia: tại sao tắm xong thầy để nước thừa trong chậu, như vậy là phạm tội Đột-kiết-la. Vị Pháp sư nói: thưa Tôn giả, tôi vô ý quá, tôi rất ân hận và xin sám hối. Câu chuyện tưởng vậy là yên, ai ngờ Thượng tọa Luật sư kia đem chuyện ấy nói lại với đệ tử của mình. Đệ tử lại nói với đám đệ tử khác, cứ thế mà đồn ầm lên thành lớn, làm náo động cả tinh xá. Đệ tử của Thượng tọa Pháp sư nghe tiếng đồn như vậy, chột tai quá, liền đi mách lại cho thầy mình hay. Vị Pháp sư nói với đệ tử là, thầy đã xin lỗi vị Thượng tọa ấy rồi, tại sao lại xảy ra chuyện ồn ào như thế này. Tự ái nổi lên, hai bên khẩu chiến bằng binh khí miệng lưỡi qua lại rất dữ. Bổn đạo cũng chia hai nhóm cứ thế làm náo động cả tinh xá.
31. Đức Phật ở ẩn trong rừng.
Phật từ nơi xa về, thấy chuyện xảy ra: liền hỏi nguyên do, hai bên cứ bảo thủ. Phật dạy không nghe. Họ thưa với Ngài, xin Thế Tôn, Ngài biết việc của Ngài, chúng con biết việc của chúng con. Can ngăn mãi không được nên Phật đành ôm bình bát một mình vào núi ở ẩn để an tĩnh. Trong khi đó, có một con voi già, nó cũng bị mấy con voi trẻ quậy phá ở không yên, nên đi tìm chỗ núp. Đi vào đó gặp Phật, hai bên gặp nhau, thấy bên nào cũng có hoàn cảnh y như nhau, nên cùng ở chung một chỗ. Cũng tại đó, có một con khỉ già cũng bị bọn khỉ trẻ ruồng bỏ, nên cũng tìm chỗ ẩn thân, đến đó gặp Phật. Như vậy, cùng ở với Phật có con voi già và khỉ già cùng hầu Phật. Mỗi sáng voi đi lấy nước về dâng Phật, khỉ đi lấy trái cây, mật ong về cúng Phật. Cho nên hiện nay, trong tranh truyện Phật giáo có hình ảnh voi và khỉ dâng đồ cúng Phật là để ghi lại chuyện đó.
Trong thời gian Phật đi vắng, hàng cư sĩ đến hầu Phật, không thấy Ngài, bèn hỏi Ngài đi đâu vắng. Chúng Tỳ-kheo nói qua loa nên hàng cư sĩ tẩy chay và cấm vận lương thực…Cuối cùng bí quá, họ mới nói thật và họ cũng rất ân hận.
Tóm lại, sau khi đã biết lỗi, tất cả cùng nhau hòa thuận và đi thỉnh Phật về. Đó là chuyện xảy ra ở Kosambi.
32. Phật dạy pháp Lục hòa ở Kosambiya.
Tại Kosambiya, tinh xá Ghosita, các Tỳ-kheo ở đó đang sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi. Các Tỳ-kheo ở đó không thông cảm nhau, không chấp nhận thông cảm, không tự hòa giải nhau, không chấp nhận hòa giải nhau nên đã bị đức Phật gọi đến la rầy (Trung bộ kinh, HT. Thích Minh Châu dịch, tập I, tr.487) và dạy cho sáu pháp đưa đến an lạc:
1. Phải an trú từ thân hành cả trước mặt lẫn sau lưng.
2. Phải an trú từ khẩu hành.
3 . Phải an lrú từ ý hành.
4. Tài vật nhận được đúng pháp, cho đến thâu nhận từ trong bình bát phải san sẻ cho các vị đồng phạm hạnh.
5. Đối với các giới luật không có vi phạm, không tì vết, không vẩn đục, không uế tạp và giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp trước, đưa đến thiền định. Tỳ-kheo sống thành tựu trong các giới luật ấy với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng và phải nhất trí với nhau.
6. Đối với các tri kiến thuộc về bậc thánh, có khả năng hướng thiện, khiến người thực hành chơn chánh, diệt tận khổ đau. Phải sống thành tựu tri kiến như vậy cùng các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng.
Thực hành 6 pháp cần ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính sẽ đưa đến hòa đồng, đưa đến hòa thuận trong hòa hợp nhất trí. Như trong Luật ta thấy, Phật điều khiển chúng cũng như một cô giáo điều khiển lớp mẫu giáo. Nó ngộ nghĩnh lắm, thế nhưng, có một thầy Tỳ-kheo đi vệ sinh thở to quá, Phật cũng chế ra oai nghi (giới). Có một thầy khách Tăng đi đến một phòng chư Tăng, không gõ cửa báo cho chủ biết, xô cửa vào phòng. Bất đồ có một con rắn nằm trên trần nhà, nghe tiếng xô mạnh quá, nó rớt xuống nơi vai thầy. Thầy hoảng quá, la hét to quá làm động những người xung quanh. Xung quanh đến hỏi: Gì mà la hét to quá vậy? Vị Tỳ-kheo nói: Con rắn rớt trên vai tôi. Hỏi: Thầy ở phòng này sao không biết con rắn ở lrên trần? Thầy nói: Tôi ở phòng khác và mới tới đây. Câu chuyện bạch lên Phật, Phật dạy: Trưởc khi vô phòng người khác phải xin phép. Lại có trường hợp một Tỳ-kheo đi khất thực, tưởng chỗ nào cũng vào được hết. Khi thầy chăm chăm bước đến một phòng nữ nhân đang lõa thể nằm, thầy hoảng quá, quay lưng đâm đầu chạy. Bất đồ ông chồng từ ngoài ngõ đi vào, ông chặn lại hỏi và kéo thầy vào nhà. Vào nhà, thấy vợ đang nằm trần truồng, ông sinh nghi là chắc có chuyện phi pháp nên đập thầy một trận nhừ tử. Các vị thiểu dục tri túc nghe chuyện ấy, lấy làm bực mình về thưa với Phật. Phật chế giới rằng, đi khất thực phải nhìn xem hướng chợ là hướng ra sao, hướng nhà cửa là hướng ra sao, hướng phòng là hướng thế nào, chứ không phải chỗ nào cũng bước tới khất thực được hết, và phải đi từ hai thầy trở lên.
33. Phật cấm dùng thần thông để thu bát.
Chương nói về tác sự: Sắm bát như thế nào? Loại bát gì được sắm, loại gì không được sắm? Bát gì được dùng, bát gì không được dùng? Nên sắm dao như thế nào để cắt đồ hằng ngày?
Về chuyện bát này, Phật có quở một vị Tỳ-kheo hiện thần thông để lấy bát. Chuyện kể rằng, có một vị ngoại đạo treo cái bát trên cao, ra điều kiện: nếu ai hiện thần thông lấy được thì bát ấy thuộc về mình. Có một vị Tỳ-kheo dùng thần thông lấy bát về và bị Phật quở. Từ đó Ngài kiết giới cấm hiện thần thông để làm chuyện đó.
Lại cũng chuyện khất thực: Một buổi nọ, một vị Tỳ-kheo đi vào nhà cư sĩ để khất thực, gặp nữ nhân. Nữ nhân thấy vị này tướng mạo oai nghi và đẹp trai nữa nên cô ta dùng thủ đoạn chiếm đoạt vị này. Cô nói là phải làm như cô bảo, nếu không cô sẽ lấy móng tay tự quào cho rách mặt rồi vu cho thầy có ý xâm phạm thân thể cô. Vị này khiếp quá và vùng bỏ chạy. Chạy ra đường gặp chồng cô trở về hỏi: sao thầy chạy dữ vậy? Sinh nghi, liền mời thầy trở lại nhà. Vào nhà thấy vợ mặt máu me ruớm ra và nói: Thầy ấy vào nhà và đòi làm chuyện phi pháp, em không chịu nên bị thầy quào rách mặt. Nhìn lại thấy vị thầy có móng tay rất dài nên cũng sinh nghi, và cũng bị chồng cô ta cho một trận đòn nhớ đời. Nghe chuyện như vậy, các Tỳ-kheo về bạch Phật, Phật chế giới không được để móng tay dài… Chương nói về điều bộ là thuyết minh về các tội Thâu-lan-giá, Đột-kiết-la…
Tôi nói đại khái như vậy để các thầy, cô biết rằng, khi đức Phật diệt độ rồi, kiết tập Tam tạng mới có một bộ Luật, đó là Bát thập tụng luật. Nhưng sau này, vì hoàn cảnh biến thiên, đệ tử của Phật từ Bát thập tụng luật đó mới xê dịch thêm bớt mà tạo ra 5 bộ Luật như hiện có. Nội dung 5 bộ Luật khác nhau là khác về chi tiết, chứ các phần chính đều giống nhau.
Riêng Tứ phần luật, nội dung có 4 phần, nhưng 4 phần đó tóm tắt cũng chia ra hai phần mà thôi. Đó là phần giới chính của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni thọ và trì tụng; phần thứ hai là nói về 20 Kiền-độ như đã nói ở trước.
34. Phân tích giới bổn.
Vì sao gọi là giới bổn? Đây là những giới bổn gốc, chính yếu của Luật tạng. Giới bổn của Tăng có 250, của Ni có 348 giới. Ngoài giới bổn, còn có phần Kiền-độ, dịch âm chữ Khandha, có nghĩa là nhóm, thiên, chương.
Phân tích giới bổn gồm có 8 mục, 250 giới chia 5 thiên và 7 tụ.
Năm thiên:
1. Ba-la-di có 4 giới.
2. Tăng tàn có 13 giới.
3. Ba-dật-đề gồm 30 xả đọa, 90 đơn đọa.
4. Đề-xá-ni có 4 giới.
5. Đột-kiết-la gồm 100 chúng học, 7 diệt trá nh .
Bảy tụ:
1. Ba-la-di.
2. Tăng tàn.
3. Thâu-lan-giá.
4. Ba-dật-đề.
5. Đề-xá-ni
6. Ác tác.
7. Ác thuyết. } Đột-kiết-la.
Năm thiên là nương ở chỗ tội nặng nhẹ của tội quả. Bảy tụ là những loại tụ căn cứ ở tội chính và nguyên nhân của nó. Thâu-lan-giá là phương tiện tội, tức tội nhân của Ba-la-di và Tăng tàn. Ác tác là tội nhẹ thuộc về thân. Ác thuyết là tội nhẹ thuộc về khẩu.
Đó là chia theo Tiểu thừa giới. Riêng Phạm Võng giới, chia hai thiên và ba tụ:
Hai thiên:
– 10 giới trọng.
– 48 giới khinh.
Ba tụ:
…nhiếp luậl nghi giới (giới lìa ác).
…nhiếp thiện pháp giới (giới hành thiện).
…nhiếp chúng sinh giới (giới hóa tha).
35. Giải thích 4 Ba-la-di.
Bốn Ba-la-di: Ba-la-di, Phạn tự là Pàràjika, Trung Hoa dịch là khí–bỏ vứt ra ngoài Tăng chúng. Tội Ba-la-di có 4, là 4 tội phạm vào thì coi như bị bỏ đi, vứt đi. Mắc 4 tội này coi như bỏ ra ngoài Tăng chúng, vì vậy gọi là khí (vứt bỏ). Phạm tội này gọi là bất cọng trú tức không được phép tham dự tất cả công việc của Tăng. Luận Du-già-sư-địa cho rằng, khi phạm 4 tội này gọi là tha thắng–tức khi phạm tội này thì bị ma thắng. Vì sao? Vì người tu sĩ ví như một chiến sĩ chiến đấu với 4 thứ ma: ma phiền não, ma ngũ ấm, ma chết, ma trời Họ đánh bằng khí giới gì? Họ chiến đấu bằng cách hành trì giới luật. Khi người tu sĩ không trì giới, không giữ giới thì thua bốn thứ ma đó, như vậy là ma thắng. Do đó, phạm bốn Ba-la-di cũng gọi là phạm tha thắng. (Tha là kẻ khác, thắng là hơn). Phạm tội để kẻ khác hơn gọi là tha thắng. Nếu phạm tội này thì ma hơn, còn phạm tội dưới tội đây thì còn giằng co, chưa phân thắng bại.
36. Giải thích 13 Tăng tàn.
Mười ba Tăng tàn: Phạn tự là Sanghà-vasena, phiên âm là Tăng-già-bà-thi-sa, Trung Hoa dịch Tăng tàn. Tăng tàn có hai nghĩa:
a. Nghĩa thứ nhất: Giới luật là tính mạng của Tăng. Khi phạm Ba-la-đi coi như chết hẳn. Còn nếu phạm Tăng tàn thì như một người chết mà chưa chết hẳn, mới hấp hối thôi; nếu cấp cứu kịp thời, gặp thầy hay thuốc tốt thì có thể cứu được.
b. Nghĩa thứ hai: Phạm giới này nếu đủ 20 Tỳ-kheo hợp lại kiết-ma đúng pháp, cho họ sám hối thì có thể tiêu diệt được tội này, nên gọi là Tăng tàn. Trong Căn bản nhất thiết hữu bộ gọi là Chúng giáo. Chúng là chúng Tăng, giáo là giáo dục. Chúng giáo có nghĩa phải có 20 vị Tăng giáo đục cho, cho sám hối thì mới hết tội.
37. Giải thích 2 Bất định.
Hai Bất định: Vì sao gọi là hai Bất định? Vì không dứt khoát tội đó là Ba-la-di hay Tăng tàn hay Ba-dật-đề. Nó có thể thành tội Ba-la-di hay tội Tăng tàn hoặc Ba-dật-đề theo lời trú tín Ưu-bà-di, là vị nữ cư sĩ có lòng tin thanh tịnh kiên cố, không nhất định nên gọi là Bất định. Hai tội này chỉ liên hệ giới bất dâm, chứ không liên hệ các giới khác.
38. Giải thích 30 Xả đọa.
Ba mươi tội Xả đọa. Phạn tự là Nissagiya-pàcittiya, Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là phiên âm, Trung Hoa dịch là Xả đọa.
Tội xả và tội đọa. Loại tội này là chỉ các Tỳ-kheo, đồ dùng đó mà khi phạm vào là trái phép thì phải đọa. Muốn sám hối tội đó thì phải ở giữa chúng hoặc đối một người mà xả đồ vật lấy dùng trái phép trước rồi sám tội sau.
Nói cách khác, khi đề cập đến tội xả đọa là các vật sở hữu của Tỳ-kheo như y, bát, tọa cụ lại không làm thủ tục tác pháp thì phải làm phép xả vật, xả tội, chừa bỏ tâm lý chứa chấp, tàng trữ tài vật để khỏi đọa lạc. Nó gồm 30 giới, ai phạm, nên đưa các phẩm vật ấy ra giữa Tăng, từ bốn vị trở lên để xả và đối trước một vị Tỳ-kheo để nói tội và xin sám hối.
39. Giải thích 90 Ba-dật-đề.
Ba-dật-đề (Pàcittiya), Trung Hoa dịch là đơn đọa. Nó liên quan đến các tội tiểu vọng ngữ, cố ý sát hại côn trùng, cùng với nữ nhân đi chung đường v.v… gồm có 90 đơn đọa là tội không dính dáng gì đến vật dụng hết. Phạm thì bị đọa thôi, không cần xả, nên gọi là đơn đọa.
40. Giải thích 4 hối quá pháp.
Bốn hối quá pháp, Ba-la-đề Đề-xá-Ni (Pàtidesanniya), Trung Hoa dịch là Hướng bỉ hối. Phạm tội này chỉ hướng tới một Tỳ-kheo khác, nói rõ lỗi lầm đã phạm và xin sám hối. Tóm lại là tội nhỏ, có thể hối cải, người phạm có thể nói tội với một Tỳ-kheo khác mà xin sám hối.
41. Giải thích 100 học pháp.
Một trăm học pháp. Phiên âm Phạn tự là Thức-xoa-ca-la-di (Sikkhà Karaniya), Trung Hoa dịch là Chúng học. Chúng học pháp là những pháp cần nên học. Như các sinh hoạt hằng ngày, các oai nghi nhỏ nhặt… Pháp này
chủ yếu là tự trách lấy mình. Đây là tội nhỏ nhặt, tội khó giữ nhưng hết sức dễ phạm. Khi biết phạm thì tự trách lấy mình để ăn năn, tự hứa lần sau không tái phạm là đủ.
42. Giải thích 7 Diệt tránh.
Bảy Diệt tránh pháp, tiếng Phạn là Adhikaramásama-thàdharmàh, Trung Hoa dịch là Diệt tránh pháp. Tức bảy phương pháp trị tội hay bảy cách thức để chấm dứt sự tranh cãi giữa chúng Tăng.
Phạm 100 học pháp và bảy Diệt tránh kết vào tội Đột-kiết-la, chỉ tâm niệm sám hối, học tập là đủ Riêng về Tỳ-kheo-ni, Phật ưu đãi hơn:
1. Ba-la-di không phải bốn, mà là tám.
2. Tăng tàn không phải 13 mà là 17.
3. Xả đọa bằng nhau.
4. Đơn đọa không phải 90 mà là 178.
5. Hối quá không phải 4 mà là 8.
6. Một trăm học pháp giống nhau.
Cộng tất cả là 348 giới. Chưa hết, Ngài còn trao thọ mạng Phật pháp cho Ni nữa. Đặc biệt là Ni có 8 kỉnh pháp, nhưng Tăng thì có nhị bất định, còn Ni thì không. Như vậy, Ni hơn 8, Tăng hơn 2. Ni thì có ngũ thiên lục tụ.
43. Tánh giới và già giới.
Vì sao gọi là tánh giới và vì sao gọi là già giới? Chữ này trong kinh Niết-bàn có cắt nghĩa khá rõ. Những việc đó tự tánh nó là tội. Thí dụ, nói láo là tội nặng. Luân lý thế gian còn không chấp nhận việc nói dối, dầu rằng trong thiên hạ không ai là không có nói láo. Khi dạy luân lý, người ta khuyên không nên nói láo. Vì sao? Vì nói láo là có tội, tự tánh nó là vậy. Có luân lý nước nào dạy nên ăn trộm đâu, mặc dầu trong xã hội đó ăn trộm tràn lan, vì ăn trộm nó thuộc về tánh tội. Cái mà bản tính nó là tội, thì dầu tu hay không tu, xuất gia hay tại gia, người người đều cho là có tội, cho nên gọi là tánh tội. Tuy nhiên, khác với thiên hạ là, một người tu sĩ khi đã phát nguyện trước đức Phật xin giữ giới đó, nếu vị đó phạm thì có tội phạm giới, còn đối với người không phát nguyện thì gọi là phạm tội chứ không phạm giới. Còn nếu họ ăn cắp, nói láo, bất quá là phạm luật pháp thế gian mà thôi. Giết người có ai chấp nhận không? Thế gian hoặc xuất thế gian cũng đều cho đó là tội ác; còn biện minh cách này cách khác, thì đó cũng chẳng qua một cách chạy bớt tội mà thôi. Cơ bản, giết người là có tội, nên gọi là tánh tội.
Già tội có hai nghĩa: a. Ngăn sự cơ hiềm của thế gian; b. Ngăn sự phạm trọng giới.
a. Thế nào là ngăn sự cơ hiềm của thế gian?
Thí dụ, làm một tu sĩ mà ở trần đi qua đi lại ngoài đường chắc chắn bị thế gian chê cười, mặc dầu không ăn cắp, không ăn trộm, không nói láo. Cho nên đã làm tu sĩ thì phải ăn mặc nghiêm chỉnh, đi đứng ngay thẳng, ăn nói chững chạc và dịu dàng để ngăn sự cơ hiềm của thế gian.
b. Thế nào là ngăn sự phạm trọng giới?
Thí dụ: uống rượu không phải là phạm tánh tội, song khi có rượu vào dễ làm cho loạn trí, kích thích phạm các trọng tội. Vậy, ngăn sự uống rượu là một cách ngăn sự phạm trọng tội.
44. Các yếu tố kết thành tội.
Mỗi loại tội, muốn kết nó là tội phạm thì phải có các yếu tố tạo thành. Thí dụ tội sát sinh, phải có đủ 5 yếu tố mới thành tội:
1. Đó là một vị Tăng hay Ni, giữ giới đủ, chưa xả giới.
2. Đối tượng sát sinh là người, không phải phi nhân hay vật.
3. Tưởng đúng đó là người. Còn khi tâm không bình thường, người mà tưởng là ma, quỉ thì không được.
4. Có ý cố sát.
5. Đã giết người đó mất mạng rồi.
Đủ năm yếu tố mới kết thành tội Ba-la-di về sát sinh. Giả sử trong đó đủ bốn yếu tố, còn một yếu tố không đúng, thí dụ người mà tưởng là phi nhơn, thì chỉ mắc tội thượng phẩm độc đầu Thâu-lan-giá, chứ không kết vào tội Ba-la-di.
Tội đại vọng ngữ: muốn kết tội này trước hết đó là Tỳ-kheo như pháp, còn Tỳ-kheo không như pháp thì không thành tội đại vọng ngữ. Người không có pháp Tỳ-kheo thì dù họ có nói tôi bay lên trời hay chui xuống đất, có xưng gì đi chăng nữa thì cũng không mắc tội đại vọng ngữ. Nhưng nếu Tăng, Ni có thọ giới Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni mà nói thì mắc tội đại vọng ngữ. Thứ hai, đối với đối tượng mình nói, họ phải hiểu, nếu không hiểu thì cũng không kết tội được. Thí dụ: mình nói với người khác, mình chứng A-la-hán rồi, nhưng họ không biết A-la-hán là gì thì cũng không kết tội mình đại vọng ngữ được. Các giới khác cũng phải đủ các yếu tố mới thành tội chứ không riêng hai giới này mà thôi.
Trong các tội trên vừa nêu, tội Ba-la-di là bất khả cứu, nặng lắm rồi, như bịnh ung thư giai đoạn cuối cùng đang chờ đợi tử thần. Còn tội Ba-dật-đề, Đề-xá-Ni, Chúng học pháp, xem như bịnh đau đầu sổ mũi, không có gì phải nguy cấp cả. Chỉ có tội Tăng tàn hơi dây dưa một chút, nó đang nằm giữa làn ranh sống và chết. Phạm tội này có tính chất phức tạp. Phạm Tăng tàn, trong mười ba giới thì có bảy giới là đơn độc phạm, còn sáu giới kia thì phải có chúng Tăng tham dự. Ví dụ: tội Tăng tàn thứ sáu, vô chủ tự vị kỷ tác ốc. Nghĩa là không có vị thí chủ nào làm nhà cho mà tự mình làm lấy thì phải trình với chúng Tăng để Tăng chỉ chỗ cho mà làm. Nếu không trình mà làm quá lượng thì phạm Tăng tàn, vì có liên hệ người khác, chứ không đơn độc làm là phạm liền. Trường hợp trên nếu không có chúng Tăng mà ở đơn độc một mình thì không phạm. Nếu có Tăng chỉ chỗ mà mình làm quá lượng thì mới phạm. Trường hợp không có Tăng nào chỉ chỗ mà làm thì không phạm. Cho nên có liên hệ với người khác. Hoặc tội thứ bảy: Hữu chủ vị kỷ tác. Nghĩa là có thí chủ làm cho mình nhưng mình cũng phải nhờ Tăng chỉ chỗ vô nạn xứ, vô phòng xứ, nếu không nhờ Tăng chỉ chỗ vô nạn xứ, vô phòng xứ mà cứ tự ý làm thì phạm Tăng tàn. Vì nó có liên hệ với người khác. Còn bốn tội Tăng tàn khác là tội thứ mười, mười một, mười hai, mười ba thì phải qua ba lần Tăng kiết-ma can gián. Nếu làm mà chưa có can gián thì không phạm. Nếu mới can gián một lần. hai lần mà bỏ thì phạm Thâu-lan-giá, chứ chưa thành tội Tăng tàn thật sự. Đó cũng có liên hệ người khác. Nếu không ai can gián mà làm thì phạm tội Thâu-lan-giá thôi. Còn khi phạm thì xử trị khác. Nếu như không che dấu mà tự phát lộ ra thì bị hành lục dạ Ma-na-đỏa. Nghĩa là sáu đêm làm một hạnh khiêm cung là hạ mình xuống để phục vụ các vị thanh tịnh Tăng khác, tự mình hoan hỷ làm chuyện đó và làm như vậy để chúng Tăng hoan hỷ, gọi là duyệt ý, ý hỷ, nên gọi lục dạ Ma-na-đỏa là lục dạ ý hỷ. Theo kiết-ma cũng gọi là hạ ý kiết-ma hay là chiết phục kiết-ma chứ không phải là kiết-ma vĩnh tấn (mặc tẩn). Đó là tự phát lộ chứ không che dấu, không phú tàng. Còn trường hợp phú tàng, phạm Tăng tàn mà che dấu, thì tùy theo số ngày phú tàng mà phạt biệt trú. Nếu che dấu tội Tăng tàn hai ngày thì phạt hai ngày biệt trú, ba ngày, bốn ngày… thì phạt ba và bốn ngày biệt trú… Tóm lại che bao nhiêu ngày phạt bấy nhiêu ngày. Trong khi biệt trú không được làm 35 việc là không được thọ giới cho người, không được làm y chỉ cho người… nếu biệt trú nửa chừng mà phạm lại thì bắt biệt trú lại từ đầu, gọi là bổn nhật trị.
Trường hợp phá hòa hợp Tăng. Khi có người phá hòa hợp Tăng thì các vị Tỳ-kheo cũ, hay các vị Tỳ-kheo khuyên can bỏ, nếu khuyên can không bỏ thì đưa ra giữa chúng ba lần kiết-ma, ba lần can. Nếu mới tác bạch một cho tới hai lần mà bỏ thì phạm Thâu-lan-giá, đủ ba lần can mà không bỏ thì phạm Tăng tàn. Người bạn đảng với người phá hòa hợp Tăng cũng ba lần can gián như vậy mà không bỏ mới phạm Tăng làn. Người hành Ô tha gia hành ác hạnh, đã ba lần can gián mà không bỏ mới phạm Tăng tàn; hoặc ác tánh bất thọ nhân ngữ, khuyên mấy cũng không nghe, thì đưa ra giữa chúng Tăng, ba lần kiết-ma can gián mà không nghe mới phạm Tăng tàn. Như vậy, bốn tội này là có liên hệ với chúng mới phạm.
Tóm lại, trong trường hợp ba tội Tăng tàn, sáu tội có liên hệ với người khác mới thành tội, còn nếu không liên hệ thì không thành tội. Thí dụ: như phạm Tăng tàn mà không có ai can gián thì chỉ phạm Thâu-lan-giá mà thôi. Phạm Thâu-lan-giá thì chỉ đối trước bốn người sám hối, ba người hay hai người tùy theo tội nặng nhẹ. Nó không dứt khoát phải đủ 20 Tăng thì mới sám hối được. Trường hợp tìm ra 20 Sư họp lại cũng khó, lẽ tất nhiên Sư phải đàng hoàng, còn Sư bị Tăng tàn không sám cũng không sao. Trong Luật cũng có mặt sám hối khác không cần phải đủ 20.
45. Sáu trường hợp đặc biệt đối thủ sám tội Tăng tàn.
Luật Căn bổn Tát-bà-đa bộ Luật Nhiếp quyển 4 có nói rằng: Có sáu hạng người phạm tội Chúng giáo (tội Tăng tàn) có thể đối với một Tỳ-kheo mà nói lên tội của mình thì được thanh tịnh. Điều này đặc biệt, lâu nay ít nghe. Sáu hạng người đó là ai?
1. Là người thông hiểu Kinh tạng.
2. Là người thông hiểu Luật tạng.
3. Là người thông hiểu Luận tạng.
Nếu ba hạng người này rủi có phạm Tăng tàn thì có thể du di một chút, chứ họ thấu hiểu Kinh, Luật, Luận đâu phải hạng tầm thường. Xét ra, họ cũng có sự tu hành kiên trì, chí nguyện cũng cao cả như thế nào mới thông thạo Kinh, Luật, Luận như vậy chứ, còn nếu biếng nhác, ăn chơi thì thông hiểu Kinh, Luật, Luận sao được. Thành thử với hạng này không thể bắt phải trước hai mươi Sư để xin sám hối (nên nhớ kết tội thì có thể bốn người mà xuất tội Tăng tàn thì phải đủ hai mươi). Họ chỉ cần đối trước một vị Sư thanh tịnh nói tội của mình ra thì được thanh tịnh.
4. Là hạng người có biết tính hỗ thẹn, biết tàm quí, không phải ù lì, ương ngạnh, có tội mà dương dương tự đắc.
Hạng người này có tội là xấu hỗ lắm, nên khi phạm tội Tăng tàn cũng không buộc trước hai mươi Sư xuất tội mà có thể một vị Sư thanh tịnh sám hối, nói lên tội của mình là thanh tịnh. Chúng ta biết hạng người biết xấu hỗ nếu khi họ biết lỗỉ của họ bị đem ra nói giữa chúng Tăng đông đảo như vậy, họ xấu hỗ có thể tự tử, bỏ giới hạnh thôi tu ngay.
5. Là hạng Thượng tọa Trưởng lão (Trưởng lão trong chúng). Ở trong chúng mà có một vị Trưởng lão lớn nhất thì tất nhiên vị này cũng đã dày công tu học như thế nào, mới được tôn xưng là Trưởng lão. Còn ăn rồi đi chơi rong thì ai tôn lên Thượng tọa Trương lão? Như vậy nếu có lỡ phạm Tăng tàn thì có thể đối với một vị Tăng thanh tịnh sám hối thì hết tội. Chứ còn một vị Thượng tọa Trưởng lão trong Chúng đem ra giữa Chúng, mà Chúng đều là hạ tọa là đệ tử, mặc dầu không phạm Tăng tàn mà xin sám hối với hạ tọa, sám sao được. Việc này trong luật cũng có châm chước, có công có tội cũng phải cân nhắc, chứ làm ông Thượng tọa Trưởng lão tu cũng bạc đầu, và phải có trình độ mới tới mức đó, lỡ có phạm đem ra xử cũng khó, vả lại chúng Tăng còn nương nhờ nơi ông nhiều chuyện lắm.
6. Là hạng người đại phước đức. Đức Phật có nói rằng: Có trường hợp lấy một nắm muối bỏ vô trong chén nước, chén nước mặn uống không được. Truờng hợp đó y như trường hợp người có ít việc thiện quá, bây giờ họ làm một việc ác thì hẳn cũng lây ác luôn, như nước mặn uống không được. Nhưng cũng có trường hợp lấy một nắm muối bỏ lrong một cái bể nước, hồ nước hay biển nuớc, nước đó vẫn uống được. Trường hợp người đại phước đức cũng y như thế, y như biển nước đó. Bây giờ lỡ có phạm Tăng tàn như bỏ một nắm muối, nó cũng không làm cho biển nước đó uống không được, mà vẫn dùng được như thường. Đại để, nó có ý nghĩa như thế.