Thích Thiện Siêu
CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo – 2002
CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
1. Thể tánh đồng nhất.
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni dầu tân dầu cựu về mặt giới luật, thể tánh đồng nhất.
2. Tám hạng Tỳ kheo.
1. Danh tự Tỳ-kheo: Là tên do thế gian gọi, chứ không phải Tỳ-kheo, vì không thọ giới Cụ túc.
2. Tương tợ Tỳ-kheo: Là cạo bỏ râu tóc mà không thọ giới. Giả bộ hình tướng xuất gia nhưng thực chỉ là cư sĩ trọc đầu.
3. Tự xưng Tỳ-kheo: Là cạo bỏ râu tóc rồi mặc áo ca-sa trà trộn trong hàng ngũ xuất gia, tự xưng Thích tử. Trong Phật giáo gọi là tặc trụ. Hạng này cần phải đuổi ra khỏi ngôi nhà Phật pháp và không cho thọ giới.
4. Khất thực Tỳ-kheo: Cũng mặc áo ca-sa khất thực, lạm xưng Thích tử, nhưng kỳ thực là ngoại đạo hay cư sĩ, không có giới luật.
5. Thiện lai Tỳ kheo: Là khi Phật còn tại thế, bậc lợi căn đến xin xuất gia. Phật gọi “Thiện lai Tỳ-kheo” tiến tu phạm hạnh để diệt khổ, tức thời râu tóc được phép tự rụng, y ca-sa dính vào mình đúng Luật, trở thành Tỳ-kheo.
6. Trước ca-sa Tỳ-kheo: Là 3 y của Tỳ-kheo cắt dọc từng miếng may lại và nhuộm màu hoại sắc mà mặc, như ngoại đạo người thế tục cũng xưng là Tỳ-kheo, kỳ thực không phải Tỳ-kheo.
7. Phá kiết sử Tỳ kheo: Tất cả phiền não ràng buộc, làm cho chúng sinh phải trôi lăn trong 3 cõi. Nếu xuất gia có thể đoạn trừ được phiền não ấy thì chứng quả A-la-hán, liền đặng Cụ túc giới.
8. Bạch tứ kiết-ma Tỳ-kheo: Nếu có người muốn xuất gia, họ đối trước chúng Tăng ba phen cầu khẩn. Chúng Tăng mới một lần bạch, 3 lần kiết-ma truyền giới Cụ túc, gọi là bạch tứ kiết-ma. Một lần thưa, ba lần hỏi (biểu quyết).
Trong 8 hạng Tỳ-kheo nói trên, trừ Thiện lai Tỳ-kheo, là chúng Tỳ-kheo chỉ có trong khi đức Phật còn tại thế. Trong những năm đầu khi chưa chế giới, những thiện nam nào đến với Ngài và xin phál tâm xuất gia thì gọi là Thiện lai Tỳ-kheo. Ngay khi Ngài gọi “Thiện lai Tỳ- kheo” thì mặc nhiên giới thể được đầy đủ. Trong kinh còn nói rõ thêm là: Y pháp cụ túc, tu phát tự lạc là y phục được đầy đủ, râu tóc tự rụng. Tự rụng ở đây không phải là nó tự rụng liền đâu, nhưng nó được phép cắt, cạo đúng Luật. Cụm từ “Thiện lai Tỳ-kheo” chỉ có trong thời đức Phật chưa chế giới và cũng chỉ có Phật mới dùng tiếng “Thiện lai Tỳ-kheo” mà thôi. Còn sau khi đức Phật chế giới rồi thì chỉ có thọ giới trong giới đàn và phải bạch tứ kiết ma mới thành Tỳ-kheo.
Bây giờ còn lại 7 hạng Tỳ-kheo. Trong 7 hạng Tỳ-kheo đó, tùy hành giả tự chọn. Nếu chọn hạng Danh tự Tỳ-kheo thì chỉ có cái tên suông. Nếu chọn hạng Tương tợ Tỳ-kheo thì cũng na ná như Danh tự Tỳ-kheo. Tóm lại, ai muốn chọn loại nào thì tùy ý. Nhưng ở đây, tôi chỉ nhấn mạnh, hạng Tỳ-kheo đoạn trừ kiết sử, tức Kiến đế Tỳ-kheo. Bậc Tỳ-kheo này do tu hành đoạn trừ phiền não kiết sử mà trở thành Tỳ-kheo. Đây là một trường hợp đặc biệt. Nếu người nào tu hành đoạn trừ được kiết sử thì họ cũng gọi là Kiến đế Tỳ-kheo. Nhưng chính thức nhất là nói hạng bạch tứ kiết-ma Tỳ-kheo.
Khi đã trở thành Tỳ-kheo thì phải biết pháp của Tỳ-kheo. Nếu không biết pháp Tỳ-kheo thì chỉ có danh mà không có thực. Nhưng pháp Tỳ-kheo nhiều lắm. Theo Luật tạng, giữ cho đúng thì thật khó vô cùng. Nếu chúng ta để suốt cả đời mà học Luật thì chưa chắc đã hiểu hết cái ngóc ngách, tỉ mỉ của nó. Sở dĩ có nhiều ngóc ngách cũng chỉ để trừ tâm bệnh của chúng sinh. Cái nghiệp của chúng sinh nó ngóc ngách như vậy nên Phật phải chế giới tỉ mỉ để trừ nó. Thí dụ, ngồi trong chúng đánh hắng to tiếng, Phật cũng chế giới. Cuộc sống của người đệ tử xảy ra lắm chuyện cho nên Phật cũng chế luật tương ứng. Vì vậy, học cho hết luật cũng không dễ. Tuy vậy, mặc dầu chúng ta không thể nói nước biển quá lớn không thể uống hết nên không uống. Phật dạy, nước trong bốn biển là nhiều nhưng cùng một vị mặn. Luật của Phật cũng thế, dù đa dạng nhưng chúng ta không thể không học. Học một phần trong 250 giới cũng biết được mùi vị an lạc của nó, đó là mùi vị giải thoát.
Muốn nếm được mùi vị giải thoát của giới luật, nên nay tôi xin nói tóm tắt về giới luật.
3. Định cọng giới và Đạo cọng giới.
Ngoài Biệt giải thoát giới có Định cọng giới và Đạo cọng giới. Như ngày xưa có một Thiền sư làm một cái cốc tu ở trên núi. Có một bà thí chủ phát tâm ủng hộ bằng cách, hằng ngày sai cô con gái đem cơm lên cúng cho Sư suốt 3 năm. Trong thởi gian ấy, mọi sự đều tốt đẹp. Mỗi lần đem cơm cúng dường trở về, bà đều hỏi con về sự tu hành của Sư. Người con gái trả lời vị Sư này tu hành tinh nghiêm, bà mẹ nghe cũng thích. Tới năm thứ 3, bà bảo con: “Này con, bữa nay phải thử lòng tu của Sư, coi có thực tu hay không. Con đem cơm lên dâng cho Sư, thọ thực xong, con giả bộ ôm Sư coi Sư phản ứng ra sao?”. Người con gái làm theo lời mẹ dặn, ôm Sư, Sư trả lời: “Khô mộc hàn nham, tam niên vô lãnh noãn”, nghĩa là: “Cây khô trên núi ba năm không biết lạnh nóng”.
Khi về nhà, bà mẹ hỏi con, người con gái thuật lại cho bà nghe lời Sư thốt ra. Bà nghe xong đùng đùng nổi giận. Tức quá, bà lên châm lửa đốt cốc của Sư. Vừa đốt vừa dẫm chân kêu lên: “Té ra 3 năm này uổng công phí của để cung cấp cho một cái cây khô. Thật là uổng công, uổng của quá trời?”. Vị Sư thấy thế lấy làm xấu hổ, bèn đi tìm nơi khác. Chí nguyện tu hành của Sư vững vàng, nên Sư đã tìm chỗ khác để tu. Khi nghe Sư làm cốc tu lại, bà cũng phát tâm ủng hộ và Sư cũng bỏ qua chuyện cũ. Người con gái cũng hàng ngày cơm nước cúng cho Sư. Bà hỏi con về cách tu hành và hành động của Sư, người con trả lời cũng không thấy có gì cả. Sau ba năm, bà biểu con
cũng làm y như trước, coi Sư phản ứng thế nào.
Một hôm, người con gái lên cốc cúng dường xong và ôm Sư hôn. Sư nói với cô rằng: “Ta biết, ngươi biết, Phật biết nhưng đừng cho bà ấy biết”. Người con về thuật lại cho mẹ nghe. Bà mừng quá và nói: “Có thế chứ!”. Khi ấy bà khăn áo tề chỉnh, lên cốc xin sám hối với Sư và xin ủng hộ tiếp. Đó chính là giới. Vì sao? Vì đó là Định cọng giới. Vị sư ấy không thọ giới trong giới đàn bạch tứ kiết-ma, nhưng do định lực mà nhiếp tâm giới hết sức nghiêm túc không đi Bố-tát nhưng giữ đầy đủ giới luật. Cho nên chúng ta học luật là để giữ giới, và cũng đừng nghĩ rằng, chỉ có những người đi Bố-tát mới là người giữ luật, còn những người tu thiền, không đi Bố-tát là không giữ giới.
Chính những người nhờ tu thiền, họ giữ giới và trì giới hơn ai hết, đó là Định cọng giới. Định cọng giới là nhiếp cả tam nghiệp vào định. Khi đã nhiếp ba nghiệp rồi thì có cái nghiệp nào dư mà đi làm bậy đâu! Thân, khẩu, ý nhiếp vào trong định thì định ấy là thân, khẩu, ý, ngoài ra không có cái thân, khẩu, ý thứ hai để mà đi làm chuyện sai quấy. Cho nên trong luật nói về giới, thì đó là Định cọng giới. Nên ngày nào tu thiền định thì ngày đó có giới. Tâm được tu ngày nào thì ngày đó có định, nếu tâm không tu mà loạn tưởng thì không có giới.
Có vị Tổ sư ngày xưa cũng đã có bài kệ phản ánh cho tâm định như sau:
Tịch tịch tinh tinh thị,
Vô tình tịch tịch phi,
Tinh tinh tịch tịch thị,
Vọng tưởng tinh tinh phi.
Nghĩa là:
Tịch tịch tinh tinh thị: là yên lặng trong sự thức tỉnh, thì đúng.
Vô tình tịch tịch phi: là vô tình mà yên lặng, là sai.
Tinh tinh tịch tịch thị: là thức tỉnh trong yên lặng mới đúng
Vọng tưởng tinh tinh phi: là thức tỉnh trong vọng tưởng, là sai.
Câu chuyện của bà già cho con gái ôm Sư, ba năm đầu mà Sư đáp: “Ta như gốc cây khô dựa vào tảng đá lạnh, qua 3 mùa đông không biết lạnh nóng”, nên bà giận. Ba năm sau, cô con gái cũng ôm Sư, Sư nói: “Phật biết, ngươi biết, ta biết nhưng đừng cho bà ấy biết”, bà mừng rỡ. Vị sư lúc đầu tu để thành “như gốc cây khô” đó là vô tình mà vắng lặng, nên sai. Ba năm sau, “Phật biết, ta biết, ngươi biết” là ý nói vắng lặng mà sáng suốt, là đúng. Nên bà già mừng rỡ.
Khi đức Phật chưa chế giới, các vị đệ tử tại gia và xuất gia nghe đức Phật thuyết pháp rồi thì tâm họ được viễn trần, li cấu (xa lìa trần cấu mà được con mắt pháp thanh tịnh). Pháp nhãn là con mắt pháp–con mắt ấy thấy pháp Tứ đế. Cũng cần nói thêm là, con mắt hôm trước đục mờ, không thấy pháp Tứ đế–khổ, tập, diệt, đạo–con mắt ấy chưa thanh tịnh. Bây giờ con mắt ấy đã thấy rõ pháp Tứ đế rồi, cho nên pháp nhãn thanh tịnh, chứng được quả
vị Tu-đà-hoàn. Chính đó là giới, mặc dầu họ không trải qua 3 lần kiết-ma thọ giới. Giới của các vị đó là Đạo cọng giới.
Vậy đạo cọng giới là gì? Chính là nhờ hiểu được lý Tứ đế mà phát sinh các tâm vô lậu nên không còn làm chuyện sai quấy. Những ai được tâm vô lậu, chính họ không nói mình tu giới, mà họ chỉ quán pháp Tứ đế, quán vô thường, vô ngã… và chính trong khi quán, họ ngộ được đạo, không làm những chuyện sai quấy nên họ cũng được gọi là người giữ giới tinh nghiêm, nên gọi là Đạo cọng giới.
Đức Phật Thích-ca thành đạo, 12 năm đầu, các hàng đệ tử của Phật chỉ theo pháp mà tu hành, trong đó tu thiền định là chính, tu trí tuệ là thứ. Đạo cọng giới thuộc về trí tuệ; Định cọng giới thuộc về thiền định. Tu hai pháp ấy mà vẫn ngăn được tội ác để thành tựu được giới. 12 năm đầu Ngài chưa chế giới, như trong luật đã nói đức Thích-ca có một bài kệ, là:
Thiện hộ ư khẩu ngôn,
Tự tịnh kỳ chí ý,
Thân mạc tác chư ác,
Thử tam nghiệp đạo tịnh,
Năng đắc như thị hành,
Thị đại tiên nhân đạo.
Nghĩa là khéo léo mà giữ miệng lưỡi lời tiếng, tự mình làm sạch tâm trí của mình và thân thể nữa cũng đừng làm ác, đó là đường sạch của ba nghiệp; khả năng đạt được đường sạch như vậy, chính là đường đi của bậc đại tiên. Hay nói một cách ngắn gọn là: Khéo giữ gìn thân, miệng, ý; đừng nghĩ bậy, đừng nói bậy, đừng làm bậy. Đó là giới kinh của đức Thế Tôn.
4. Nguyên nhân Phật chế giới Biệt giải thoát.
Từ đó về sau mới phân biệt nói rộng ra là vì có một lần, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Phật: “Bạch đức Thế Tôn, làm sao để Chánh pháp của đức Như Lai, sau khi Như Lai diệt độ rồi, Chánh pháp ấy vẫn được tồn tại lâu dài?” Thế Tôn dạy: “Đức Phật nào mà có nói Giới, nói Pháp thì chúng đệ tử nhờ đó để tu hành, làm cho Chánh pháp được cửu trú sau khi Như Lai diệt độ”. Khi ấy Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Ngài rằng: “Bạch Thế Tôn, tại sao con không thấy Thế Tôn chế giới mà chỉ nói pháp?”. Ngài dạy: “Này Tôn giả, Ta biết thời phải làm gì, nay chưa tới thời nên Ta chưa chế giới. Khi nào trong Tăng chúng có việc vì danh lợi, vì hữu lậu xảy ra thì Như Lai mới chế giới”. Vì thế, 12 năm đầu chưa xảy ra chuyện gì cấu uế nên Ngài chưa chế giới.
5. Mười lợi ích của việc chế giới.
1. Nhiếp thủ ư Tăng: vì kiện toàn Tăng-già thành chúng thanh tịnh.
2. Linh Tăng hoan hỉ: Vì tu hành phạm hạnh nên thiện tâm Tăng trưởng khiến được hoan hỉ đối với nhau.
3. Linh Tăng an lạc: vì hoan hỉ được an lạc nơi thiền định, trong tự tâm.
4. Linh vị tín giả tín: khiến người chưa có lòng tin Tam Bảo, thấy chư Tăng tu hành phạm hạnh mà sinh lòng tin.
5. Dĩ tín giả linh Tăng trưởng: đối với người đã tin rồi khiến lòng tin của họ Tăng trưởng.
6. Nan điều giả linh điều thuận: người khó điều phục khiến họ được điều thuận.
7. Tàm quí giả đắc an lạc: khiến người biết hỗ thẹn được an vui.
8. Đoạn hiện tại hữu lậu: vì đoạn diệt phiền não ở hiện tại.
9. Đoạn vị lai hữu lậu: vì đoạn diệt hết phiền não ở vị lai.
10. Linh chánh pháp cửu trú : vì tu phạm hạnh mà chánh pháp được tồn tại lâu dài.
Trong luật Tỳ-kheo của Nam tông cũng y như vậy:
1. Samaghasutthutàya: vì kiện toàn của Tăng-già.
2. Samghaphà sutàya: vì an trụ của Tăng-già.
3. Dummankuman puggalànam niggahàya: vì ức chế kẻ khác.
4. Pesalànam bikkùnam phàsuvihàya: vì an trú của thiện Tỳ-kheo.
5. Dittha dhammikanam asavanam samvaràya: vì đoạn phiền não hiện thế.
6. Samparàyikanam àsavanam patighàtàya: vì đoạn diệt phiền não ở vị lai.
7. Appasannànam pasàdaya: vì khiến chưa tin sinh tin.
8. Passannànam bhiyyobhàvàya: vì người đã tin, lòng tin thêm kiên cố.
9. Saddhammatthiliyà: vì Chánh pháp cửu trú.
10 Vinayà nuggahàya: vì yêu chuộng, kính trọng Luật.
Đó là 10 điều ích lợi cho việc chế giới. Mỗi khi xảy ra một việc, Ngài chế một giới và kèm theo 10 lợi ích của nó. Đó là lý do chế giới. Mười điều này trong Luật gọi là 10 cú nghĩa.
6. Giới thứ nhất: bất dâm.
Đến năm thứ 13 đức Phật mới chế giới. Chuyện chế giới là do Tôn giả Na-đề-tử. Tôn giả là một người giàu có, sau đó từ bỏ gia đình xin theo Phật xuất gia. Trong thời gian sau, vì mất mùa, dân tình đói kém, chúng Tỳ-kheo
phải phân chia nhau đi các vùng chung quanh để khất thực. Tôn giả Na-đề cùng với một số Tỳ-kheo đi đến vùng Tôn giả ở để khất thực. Khi đến, Tôn giả liền về quê và vào nhà khất thực. Bà mẹ thấy Tôn giả trở về, mừng rỡ, níu kéo, khóc lóc, van xin Tôn giả đừng đi xuất gia nữa. Nhưng Tôn giả không chịu. Bà mẹ khuyên lơn nhiều lần nhưng Tôn giả cứ khăng khăng từ chối. Cuối cùng bà nói với Tôn giả: “Con ơi, nhà ta giàu có, con đi tu rồi không ai nối nghiệp gia đình để lo hương khói cho tổ tông ông bà. Mẹ cũng đã già rồi, không có ai tâm sự hôm sớm. Thôi thì con có đi thì đi, nhưng hãy để lại cho mẹ một đứa cháu rồi hãy đi”. Thương mẹ nên Tôn giả đành chìu mẹ, và nghĩ: “cùng với vợ cũ ân ái một chút có sao đâu!”. Thế là bà dắt con dâu tới cho Tôn giả và Tôn giả cũng thấy không có gì rắc rối cả. Tôn giả nghĩ: đi tu thì cứ đi, miễn là để cho bà một chút cháu nội cho bà yên lòng là được. Xong chuyện là Tôn giả ra đi, thậm chí sau đó sinh con Tôn giả cũng chả hay. Từ khi xảy ra chuyện giữa Tôn giả và vợ cũ rồi, một thời gian sau thấy các vị Tỳ-kheo khác không có chuyện ân ái, sao mình lại để cho chuyện vợ cũ ràng buộc? Tôn giả bức rức trong lòng và tỏ ra khó chịu, ân hận. Các vị Tỳ-kheo hỏi: “tại sao thời gian đầu hiền giả hoan hỉ, sắc diện tươi tốt mà nay thấy ủ rũ quá vậy?”. Tôn giả đem chuyện đó kể cho các vị Tỳ-kheo hay.
Các vị Tỳ-kheo đem chuyện của Tôn giả bạch lên đức Thế Tôn. Thế Tôn kêu lên quở trách.
Bắt đầu từ đó Phật mới chế giới thứ nhất là hàng xuấl gia thì không được dâm dục. Và trước khi chế giới, Ngài nó rõ mười công đức lớn của việc chế giới.
7. Giới thứ hai: bất đạo.
Nguyên do là có một vị Tỳ-kheo Đàn-ni-ca, nguyên là con thợ gốm, làm cái chòi bằng tranh trên núi để ở. Những người đi lượm củi, họ thấy chòi vắng nên họ đến dỡ đi và lấy củi tranh về nấu cơm. Khi về thấy chòi bị dỡ, Tôn giả bèn nghĩ là nên làm bằng vật liệu chắc chắn hơn. Suy nghĩ như vậy, Tôn giả liền làm chòi kiên cố bằng đất nung đỏ chói. Đức Phật trông thấy hỏi, các Tỳ-kheo khác bạch cho Ngài hay. Ngài liền sai người kêu vị Tỳ-kheo ấy lại và hỏi có việc thầy làm chòi kiên cố trên phải không? Vị Tỳ-kheo ấy xác nhận. Đức Phật bảo thầy nên dỡ bỏ đi, nhưng Tôn giả trù trừ không muốn dỡ bỏ. Đức Phật sai các Tỳ-kheo đến dỡ bõ căn chòi đó. Tôn giả không phản ứng gì nhưng lại có ý làm cái cốc khác. Tôn giả bèn đến nhà người giữ cây cho vua và nói rằng: Này anh kiểm lâm, vua Bình Sa có hứa cho tôi dùng cây này để lôi làm cốc tu. Anh kiểm lâm nói: nếu đã có lệnh vua thì thầy cứ lấy Thế là Tôn giả vác rìu đến đốn cây và xả lung tung. Cây bị đốn ngã nghiên thành từng khoảnh. Hôm sau có quan triều đình đi kiểm tra thấy cây cối chặt bỏ lung tung, kêu anh kiểm lâm đến hỏi duyên cớ, anh kiểm lâm bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Quan triều đình cho mời Tôn giả lên và hỏi về tội đốn cây quý của nhà vua mà không được phép của quan triều đình. Tôn giả bèn trả lời rằng: Trước khi lên ngôi vua, nhà vua có nói rằng, những gì có trong nước chúng tôi, các vị xuất gia tu hành biết thiểu dục tri túc nếu có cần dùng thì cứ lấy dùng. Vua có tuyên bố như vậy nên tôi mới lấy dùng. Quan triều đình nói rằng: Vua chúng tôi có nói vậy thật, nhưng mà những vật không có chủ giữ kia, còn những đồ vật có chủ, thì vua chúng tôi không cho phép. Câu chuyện rắc rối được các Tỳ-kheo về bạch Phật. Phật mới chế giới “bất dữ nhi thủ”, (người ta không cho thì không lấy). Khi ấy Thế Tôn quay qua hỏi một vị Tỳ-kheo, trước khi xuất gia, nguyên là quan triều đình rành pháp luật của vua, theo luật vua, lấy đến ngang nào thì bị tội và ngang nào thì không bị tội? Tôn giả đáp: Theo con biết, thì như luật pháp trong nước này, nếu lấy độ năm tiền thì bị tử hình, còn nếu dưới thì tùy đó xét xử dưới mức tù tội. Từ đó Phật chế giới: nếu ăn cắp, lấy trộm của người khác 5 tiền thì bị trọng tội.
8. Giới thứ ba: bất sát.
Phật dạy các Tỳ-kheo tu phép quán bất tịnh để dứt lòng ái dục. Một số Tỳ-kheo ở tại vườn bên sông Bà Cừu chuyên tu theo phép quán bất tịnh. Khi quán thân bất tịnh, thấy thân thể của mình hôi hám chịu không nổi, là một ổ vi trùng sống nhung nhúc lại càng nhàm chán hơn, cho nên muốn hủy diệt thân, mới nói: ai giúp cho tôi giải thoát thân này thì được phước lớn. Tỳ-kheo Vật-lực già-nan-đề nghe nói vậy liền cầm dao sát giúp. Khi sát xong rồi, ông ta liền cầm dao xuống sông rửa. Khi rửa dao, thấy bóng mình phản chiếu dưới nước dữ tợn quá nên ông ta đâm ra ân hận nghĩ rằng: mấy vị Tỳ-kheo kia có tội tình gì mà mình ra tay tàn sát các ông, mặc dầu có lời yêu cầu. Lúc ấy Ma vương biết ý liền hiện lên đứng trên nước và ca ngợi rằng: “Ồ Hiền giả, lành thay, Hiền giả đã làm cho người chưa độ được độ; Hiền giả đã làm một việc đại phước đức, đó là một công đức lớn. Hiền giả hãy ra tay cứu độ cho những ai muốn giải thoát thân ngũ uẩn hôi hám này, công đức thật vô lượng”. Nghe vậy ông yên tâm, xách dao về và hô to: “Hỡi các Hiền hữu, ai muốn lìa thân ngũ uẩn để giải thoát, muốn độ thoát sinh tử, đến đây tôi độ cho”. Thế là ông phơ luôn một số nữa!
Thường lệ, sau mùa An cư, các vị Tỳ-kheo kéo nhau về vấn an sức khỏe đức Thế Tôn, như con về thăm cha sau 3 tháng xa nhà. Khi về hầu Phật, bao giờ Phật cũng niềm nở đón tiếp đệ tử và Ngài hỏi An cư có an lạc không, có hòa hợp không, đi đường có trở ngại gì không… như cha thân mật hỏi con.
Nhưng mùa An cư này, Ngài thấy đệ tử các nơi về thưa thớt quá. Ngài đợi mãi đợi hoài không thấy họ trở về. Phật sai các vị Tỳ-kheo đi thăm dò nghe ngóng coi họ có bị gì không? Các vị Tỳ-kheo đi ra khỏi tinh xá, thì ở ngoài đường, thiên hạ đồn ầm cả lên rằng: “Không biết mấy ông thầy tu theo pháp môn nào mà giết nhau nằm la liệt cả khu rừng, hôi thối không ai chịu nổi”. Các vị nghe nói liền đến nơi xem thì thấy có chuyện như vậy. Các Tỳ-kheo về bạch Phật. Phật bảo, Ta dạy chánh pháp, họ hành tà pháp. Từ đó Ngài khuyên các vị Tỳ-kheo đổi pháp quán bất tịnh ra quán sổ tức để dẹp trừ phiền não, chứ không nên quán bất tịnh đâm ra bi quan mà hủy hoại thân mình như các Tỳ-kheo kia đã làm. Từ đó Ngài chế ra giới bất sát.
Tóm lại, học Phật pháp, hành Phật pháp, nếu làm không đúng, hiểu không đúng cũng dễ đưa đến kết quả tai hại.
Trái lại, không hiểu Phật pháp, không áp dụng Phật pháp vào cho bản thân và xã hội, cũng là một thiệt thòi lớn. Ví như người bắt rắn trong kinh Xà Dụ có kể: “Một người bắt rắn mà không biết cách bắl nó, cứ cố bắt đằng đuôi, hay giữa thân rắn, nó có thể quay đầu lại cắn và có thể gây tử vong. Muốn bắt rắn, cần phải lấy cái nạng đôi đè đầu cho cứng là rắn chịu phép, mặc cho đuôi quẫy sao đó thì quẫy, không ảnh hưởng gì. Cũng vậy, tu học Phật pháp cũng phải biết phương pháp, như cách bắt rắn vậy”. Hoặc như trong kinh Bách Dụ kể chuyện “Ăn trộm áo vua”. Có một anh chàng nghèo ăn trộm áo vua. Triều đình cho quan quân đi lùng sục khắp nơi và bắt được nó. Nó kêu oan và nói là áo của tổ tiên để lại. Quan nói nếu áo của tổ tiên anh để lại thì anh mặc vào xem. Áo vua quá rộng nên nó không biết mặc. Thấy tay áo rộng như ống quần, nó liền đưa chân vào hai tay áo. Mặc hoài không xong nên lòi ra nói láo. Quan hỏi, áo tổ tiên sao anh không biết cách mặc? Như vậy, nếu không biết sử dụng thì dầu có áo vua đi nữa cũng mang họa vào thân mà thôi. Pháp và Luật của Phật có vi diệu đến đâu, nếu không biết tu tập và hành trì đúng thì cũng chả có ích lợi gì!
9. Giới thứ tư: bất vọng ngữ.
Tại sao Phật chế giới này? Trong thời đức Phật, Ấn Độ chưa phải là nước đã đầy đủ luơng thực cho dân chúng hết đâu. Gặp lúc mất mùa hạn hán, chư Tăng khất thực khó khăn nên đành phải phân tán nhỏ để khất thực. Tại một thôn nọ, có một nhóm Tỳ-kheo, bàn bạc và tìm cách đánh lừa tín chủ bằng cách, một người nói mình đã chứng A-la-hán, được thượng nhân pháp, thần thông tự tại, còn người kia phụ họa vào nói đó là việc tôi đã
biết ông ta có thần thông… nếu cúng dường cho ông thì được phước vô lượng. Thế là họ ca ngợi nhau, nên bổn đạo thi nhau cúng dường. Một mùa hạ trôi qua được no đủ.
Sau mùa An cư, đệ tử lần lượt về hầu Phật, ai cũng xanh xao, duy có nhóm mấy thầy Tỳ-kheo thôn nọ, khi về hầu Phật thì béo tốt, Phật hỏi: Các thầy An cư có an lạc không?. Họ trả lời an lạc. Còn khất thực ra sao? Họ trả lời khất thực dễ lắm. Ngài ngạc nhiên hỏi: tại sao Thế Tôn thấy mấy thầy đến trước về thăm Ta, Ta hỏi khất thực thì họ trả lời khó lắm, nhưng vẫn giữ thiểu dục tri túc, còn các thầy sao lại khất thực dễ quá vậy? Thế là họ đành phải thú nhận sự nói dối của mình. Thế Tôn quở trách nhóm đệ tử nọ và Ngài chế ra giới này. Cấm các hàng Tỳ-kheo đệ tử của Như Lai đại vọng ngữ; chưa chứng nói chứng, chưa thấy nói thấy pháp.
Cứ như thế, hễ xảy ra mộl chuyện, Phật chế ra một giới và Ngài đã chế ra 250 giới cho Tỳ-kheo, 350 giới cho Tỳ-kheo-ni, kết thành bộ Luật gọi là Luật tạng. Những giới của Phật chế ra cũng gọi là Biệt giải thoát giới hay Ba-la-đề-mộc-xoa. Vì sao gọi là Biệt giải thoát? Vì ai thọ giới nào thì có sự giải thoát của giới đó, có sự lợi ích của việc thọ giới ấy. Thí dụ, cư sĩ tại gia thọ 5 giới thì sẽ đem lại lợi ích của 5 giới do mình thọ. Mười giới có lợi ích của mười giới, 250 giới có lợi ích của 250 giới, nên gọi là Biệt giải thoát.
Khác với định cọng giới, đạo cọng giới tức là biệt biệt giải thoát giới, tức là giới Ba-la-đề-mộc-xoa. Chính Ba-la-đề-mộc-xoa kết lại thành một bộ Luật, gọi là tạng Luật.
10. Giới luật.
Chữ giới luật thường thường được dành cho hàng xuất gia và tại gia đệ tử của đức Phật thọ trì để đem đến an lạc cho bản thân và cho xã hội, công đức của nó vô lượng. Vậy nghĩa của nó là gì?
Chữ Luật có 4 tên gọi:
1. Tỳ-Ni (tức Tỳ-nại-da – Vinaya), dịch là Luật hay điều phục. Điều phục những sự sai trái nơi thân, khẩu, ý. Nó cũng có nghĩa là diệt (tức phiền não). Diệt có nghĩa là nhờ giới này mà chứng được diệt đế, diệt quả.
2. Mộc-xoa, tức Ba-la-đề-mộc-xoa (Pràti-moksa), dịch là Biệt giải thoát.
3. Thi-la (Sìla), dịch là Giới.
4. Upalaksa, dịch là Luật.
Thường thường ta hiểu giới là luật, luật là giới. Nhưng tại sao một chữ mà nói ra hai như thế? Nếu giới là luật, luật là giới, sao không gọi là Giới tạng mà lại gọi là Luật tạng? Vì giới chưa hẳn có luật mà luật thì phải có giới. Giới luật y như là một thang thuốc là vì giới là dược tánh, luật là phương thang. Bất sát như là thục địa, bất đạo là kiết cánh, bất dâm là đổ trọng… mỗi giới như là một vị thuốc. Dược tính có tính cách đắng, màu của nó đen, có mùi thơm, có tính cách dàn hòa, có tính công phá và bồi bổ từng bệnh riêng, đó là dược tính của nó. Trong đạo, đó chính là giới, còn luật là phương thang. Chính luật tạo ra từng phương thang một, có thang ngũ vị để dành cho cư sĩ uống (năm giới), có thang bát vị để cư sĩ tu thêm (Bát quan trai giới), có thang thập vị để mấy vị Sa-di dùng (mười giới dành cho Sa-di),
có thang 250 vị để cho mấy vị Tỳ-kheo dùng (250 giới của Tỳ-kheo). Nếu uống thuốc đó vào mà trở bệnh thì sao? Xử lý cách nào? Tóm lại, giới là dược tánh, luật là phương thang. Giới là điều răn, luật là qui luật thi hành giới. Không có luật thì giới không có cách thi hành.
11. Bốn khoa của giới.
Giới có 4 khoa lớn: giới pháp, giới thể, giới hạnh và giới tướng.
a. Giới pháp:
Giới cũng là một pháp do đức Phật chế ra nên giới cũng gọi là Pháp, luật cũng là Pháp; do Phật chế nên đó là Pháp của Phật. Vì vậy khi ta nói Phật pháp là gồm cả giới trong đó nữa, chứ không phải nói pháp là pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Bát chánh đạo… mà thôi đâu. Pháp có nghĩa như vậy nên gọi là giới pháp.
b. Giới thể (nạp thọ pháp thành thể):
Khi Pháp có được tam sư, thất chứng, bạch tứ kiết-ma, đưa nó vào trong người giới tử thì nó biến thành giới thể của người giới lử, gọi là giới thể.
Thí dụ: Như là trong khi thọ giới, vị thầy kiết-ma bạch tứ kiết-ma rằng, tôi xin hỏi các vị ngày hôm nay, có vị đó tên như vậy, như vậy… xin theo Hòa thượng tên như vậy, như vậy thọ Cụ túc giới. Nếu Tăng chúng ai bằng lòng cho vị ấy thọ giới Cụ túc thì cứ im lặng, ai không bằng lòng thì nói lên. Ba lần kiết-ma như thế là giới thể được thành tựu nơi ông giới tử. Đó là thọ thể, tức thọ nhận cái giới thể nên gọi là thọ thể giới, giới được thành tựu nơi ông giới tử
c Giới hạnh.
Từ nơi giới thể mà phát ra cử chỉ, hành động, nói năng đều y như pháp, tức là tùy thuận giới thể mà các hành vi của 3 nghiệp thân, khẩu, ý đều hành động y như pháp. Chúng ta quan sát kỹ, một người khi họ chưa thọ giới thì nói năng, hành động khác; khi họ đã thọ giới rồi, hành động, nói năng lại càng khác hơn. Là vì do có giới hạnh nên hình tướng và oai nghi khác đi, gọi là giới hạnh.
d. Giới tướng.
Hành trì giới luật có oai nghi hiện tướng ra bên ngoài, ai trông thấy cũng biết được, đó gọi là người có giữ giới.
Nói về giới thế thì có 3 quan điểm:
a. Theo quan điểm của các bộ phái Phật giáo ngày xưa, chỉ quan niệm giới thể chung chung thế thôi. Phái Nhất thiết hữu bộ chủ truơng giới thể thuộc sắc pháp, lấy sắc pháp làm giới thể; bởi lẽ, một người thành tựu được giới là phải đối trước tam sư, thất chứng, chính tự mình thân quỳ lạy, miệng nói, trả lời câu hỏi mới thành được. Nếu không lạy, không quỳ, không dùng cái thân nàỵ tỏ bày cái tướng lãnh thọ giới điều thì không thành giới thể được. Mà thân này là gì? Là tứ đại sắc thân. Lấy tứ đại sắc thân đối trước tam sư, thất chứng mà thọ giới thể, cho nên giới thể đó thuộc về sắc pháp. Đó là quan điểm của Hữu bộ. Vì vậy, quan điểm của Hữu bộ cho giới thể thuộc về Vô biểu sắc. Vô biểu sắc là một thứ sắc không biểu hiện cho người ta thấy được, nó là một pháp vô hình nhưng thuộc về sắc. Theo Hữu bộ, nó thuộc về sắc ấm, sắc uẩn chứ không phải thuộc các uẩn khác. Giới thể theo Hữu bộ là sắc pháp.
b. Theo Đại thừa Duy thức thì giới thể thuộc về tâm pháp, vì sao? Vì theo Duy thức, người ta có hai thứ nghiệp, là tư nghiệp và tư dĩ nghiệp. Tư nghiệp là nghiệp của ý. Thí dụ, mình nghĩ phải bố thí cho kẻ nghèo, sự suy nghĩ đó nó đang còn trong tâm chứ chưa hiện ra ngoài. Chính sự suy nghĩ đó cũng là cái nghiệp sau khi suy nghĩ, nó phát ra miệng nói, tay cầm vật cho kẻ nghèo, như vậy gọi là tư dĩ nghiệp. Tư có ba là Thẩm lự tư, tức suy nghĩ, tính toán; Quyết định tư, tức đã quyết định, và Phát động tư, là từ quyết định phát động ra ngoài, gọi là Phát động tư. Vì vậy, theo Đại thừa Duy thức thì khi một người nào đó đã phát động ra trước tam sư, thất chứng, ví dụ nói: Tôi xin giữ được giới ấy… cái phát động ấy chính là do cái tư, cái mà anh suy nghĩ và nói ra, nếu không có cái tư ấy thì làm sao anh nóì tôi xin giữ được? Cho nên, Đại thừa Duy thức nói giới thể thuộc về tâm pháp chứ không thuộc về sắc pháp.
c Phái Thành thật luận cho rằng, giới thể phi sắc phi tâm, bởi nó không trông thấy, làm sao nói là sắc? Thứ nữa, nó không có duyên lự, làm sao nói tâm được, nên nói là phi sắc phi lâm. Nó chỉ là một cái năng lực ngấm ngầm bên trong, có tác dụng ngăn chặn việc làm sai trái của người định làm. Thí dụ, người thọ giới Cụ túc rồi, mỗi năm đến mùa An cư phải nhập hạ, song có lúc có người không muốn An cư, nhưng sức mạnh ngấm ngầm của giới biểu họ phải An cư, đó là chuyện nên làm. Tóm lại, đó là một năng lực phi sắc phi tâm. Dù nói cách nào, như chủ trương nó thuộc sắc pháp, dầu thuộc tâm pháp, dầu thuộc phi sắc phi tâm thì cũng là một cái năng lực vô hình có năng lực phòng phi chỉ ác–ngăn điều quấy, dứt điều ác.
Tóm lại, 250 giới nhìn thì nhiều, nhưng chỉ có nghĩa là phòng phi chỉ ác. Nói cách khác, muốn áp dụng giới trong đời sống hàng ngày thì phải hiểu cách thực hành của nỏ, đó là chỉ trì và tác trì Chỉ trì giới là giới ngăn dứt, không làm. Thí dụ, phát nguyện giữ 5 giới, đó là do tự phát nguyện. Nếu không sát sinh hại mạng thì đã là trì giới, ngược lại, sát sinh là phạm. 250 giới của đức Phật chế, trừ chúng học pháp ra, có một phần trì, một phần chỉ. Tác trì giới tức là những điều đáng phải làm mà làm thì gọi là trì; ngược lại không làm là phạm. Ví dụ: Khi đến mùa An cư mà An cư là trì, không An cư là phạm, nên gọi là tác trì.
12. Biệt giới, thông giới.
Giới của Phật chế có biệt giới và thông giới.
a. Biệt giới là giới của hàng xuất gia, giới của hàng Thanh văn. Thí dụ: Hàng xuất gia nếu là Tỳ-kheo thì phải thọ 250 giới, Sa-di là 10 giới, còn cư sĩ là thọ 5 giới… Có phân biệt rõ ràng như vậy gọi là biệt giới. Cư sĩ không thể thọ 250 giới. Riêng đối với Ni cũng vậy. Sa-di-ni cũng thọ 10 giới, không được quá. Thức-xoa-ma-na 6 giới, không được quá. Tỳ-kheo-ni 350 giới mà thôi, nên gọi là biệt giới.
b. Thông giới tức là Bồ-tát giới, ai thọ cũng được. Sa-di, cư sĩ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa, Sa-di-ni, có bệnh không bệnh, dù thân căn không hoàn chỉnh thọ cũng được. Điều kiện để thọ là nghe tiếng, hiểu nghĩa Pháp sư truyền là được thọ; trái lại, trong luật Tỳ-kheo, nếu bị dị tật thì không được thọ. Vì vậy, Bồ-tát giới gọi là thông giới, còn luật Tỳ-kheo, Sa-di… gọi là biệt giới. Thông giới có tính cách vĩnh cữu, còn biệt giới chỉ có tận hình thọ mà thôi. Giả sử hoặc có chết, hoặc thay đổi nam thành nữ tánh thì tự nhiên mất giới, mặc dù tâm không mất, nhưng hình tướng đã mất thì giới cũng mất, đó là không kể xả giới. Còn giới Bồ-tát thì tùng kim thân cho tới Phật thân, tức cho đến thành Phật, giới đó không mất. Chỉ mất giới khi nào bỏ Bồ-đề tâm, bỏ Bồ-tát hạnh, phạm trọng giới mới mất. Còn có phạm khinh giới vẫn được sám hối. Vì vậy, người giữ Bồ-tát giới dầu có đọa địa ngục, có lên thiên đường, có phạm năm lần bảy lượt đều có thể sám hối, miễn là chủng trí Bồ-đề tâm vẫn còn.
Lúc đức Phật sắp Niết-bàn, các hàng đệ tử tỏ ý lo lắng, sợ đức Thế Tôn nhập Niết-bàn rồi không ai dìu dắt chúng đệ tử. Đức Phật mới dạy rằng, Pháp và Luật mà Ta đã dạy cho các ngươi, chính đó là đạo sư của các ngươi. Trong kinh Di Giáo, đức Phật dạy: “Nhữ đẳng Tỳ-kheo, ư ngã diệt hậu, đương tôn trọng trân kính Ba-la-đề-mộc-xoa, như ám ngộ minh, như bần nhân đắc bảo. Đương tri thử tắc thị nhữ đẳng đại sư. Nhược ngã trú thế, vô dị thử dã”. Nghĩa là: “Các thầy Tỳ-kheo, sau khi Ta diệt độ, các thầy phải tôn trọng tôn kính tịnh giới, như ở chỗ mù tối mà được ánh sáng; nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu Ta ở đời thì cũng không khác gì vậy”. Đó là lời dạy thứ hai. Lời dạy thứ ba là: “Các ngươi hãy tinh tiến lên để giải thoát”.
Nói về lời dạy Pháp và Luật trong giáo lý đức Phật, chúng ta phải biết Pháp là gì và Luật là gì? Pháp tức là giáo pháp. Thí như Ngài dạy về lý vô thường, vô ngã, Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Bát chánh đạo, Giới, Định, Tuệ… gọi là Pháp. Pháp ấy có mục đích hướng dẫn cho chúng sinh tu hành để thành đạo, để giác ngộ. Luật là gì? Luật là những điều răn cấm, những quy tắc, những luật lệ để hành trì, áp dụng cho đời sống cá nhân và tập thể. Pháp kết tập lại thành Kinh tạng, Luật kết tập lại thành Luật tạng.
Sau khi đức Phật nhập diệt, lần kiết tập đầu tiên là kiết tập Kinh tạng và Luật tạng. Bây giờ chúng ta nói kiết tập Tam tạng là nói chung, nhưng lúc đầu chủ ý kiết tập là thành Kinh tạng và Luật tạng, hai chữ này nó mang một ý nghĩa rất lớn. Cả Kinh tạng lóm lại trong một chữ Pháp mà thôi; cả Luật tạng thành một chữ Luật mà thôi. Cho nên Ngài không nói Ta để lại Kinh tạng Luậl tạng cho các ngươi, mà Ngài nói Ta để lại Pháp và Luật cho các ngươi. Các ngươi hãy lấy đó làm bậc Đạo sư của mình. Ta có ở đời cũng không khác.
13. Thế Tôn diệt độ.
Khi đức Phật nhập Niết-bàn ở tại rùng Kusinara giữa Ta-la song thọ, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp cùng một số Tỳ-kheo rất đông đang đi du hóa và hành đạo ở phương xa. Số đệ tử này do Phật độ sau 45 năm hành đạo và thuyết pháp, một số khác do các đệ tử Ngài thâu nhận vào nhập chúng cũng khá đông. Các đệ tử của Ngài ở rải rác khắp mọi nơi. Riêng Tôn giả Ma-ha Ca-diếp với một số Tỳ-kheo ở phương khác như xứ Pava, nhân ngày đó cùng đi về thành Kusinara. Giữa đường, gặp một người ngoại đạo cầm một cái hoa nơi tay, Tôn giả liền hỏi: Hiền giả từ đâu đi lại? Ông trả lời: tôi từ Kusinara đến. – Vậy Hiền giả có biết Như Lai, Thế Tôn của chúng tôi ở đâu không? – Như Lai, Thế Tôn của các ông đã nhập diệt rồi. Chính tôi ở nơi chỗ nhập diệt của Ngài mà lượm cái hoa này đây. Nghe nói như vậy, các vị A-la-hán thì bình tĩnh yên lặng, nhưng các vị chưa đạt đến quả vị A-la-hán tâm lý xúc động mạnh. Có vị ưu phiền, có vị ré lên, đấm ngực khóc lóc.
14. Tân Tỳ-kheo Bạt-nan-đà vui mừng.
Trong số này có một thầy Tỳ-kheo tên là Bạt-nan-đà khi nghe tin Thế Tôn diệt độ, mừng rỡ liền nói: Này các Hiền giả, lý đáng ra khi nghe tin này, các Hiền giả phải vui mừng, sao lại khóc lóc? Khi ông Đại Sa-môn còn sống, ta cứ bị ràng buộc theo ông. Ông cứ bảo nên làm như thế này, thế nọ; không nên làm như thế này, như thế nọ. Ông Đại Sa-môn cứ nhắc nhở hoài, phiền toái quá ? Bây giờ ông Đại Sa-môn quá vãng rồi, thì chúng ta được sống tự do. Cái gì ta ưng thì ta làm, cái gì ta không thích thì ta không làm. Chúng ta được sống tự do theo ý chúng ta.
Tôi đọc cuôn Văn minh Ấn Độ của Durand, ông có nhắc chuyện Tỳ-kheo Bạt-nan-đà và có nhận xét thêm: Tương lai trong hàng đệ tử của Phật, những người tu theo Bạt-nan-đà đông hơn theo Phật, có lẽ cũng đúng!
15. Kiết tập lần I.
Chứng kiến chuyện như vậy, nên khi về thành Kusinara dự lễ Trà tì kim thân đức Thế Tôn xong, Tôn giả Đại Ca-diếp mới nảy ra một ý để giáo pháp của Phật khỏi bị rơi rớt, để cho chúng Tăng sau này ghi nhớ mà hành trì, nên Tôn giả mời các vị A-la-hán mở một cuộc kiết tập Kinh và Luậl. Cuộc kiết tập lần thứ nhất do Tôn giả chủ trì được mở ra ngay trong năm đức Phật diệt độ. Ngay trong 3 tháng hạ này, cuộc kiết tập lần thứ nhất được bắt đầu gồm có 500 vị A-la-hán ở thành Tỳ-xá-li dưới sự bảo trợ của vua A-xà-thế. Trong số dự kiến 500 vị A-la-hán, đã có 449 vị, còn thiếu một vị nữa. Tôn giả A-nan là một vị đệ tử hầu hạ đức Thế Tôn 25 năm, nên có vị đề nghị mời Tôn giả vào cho đủ số 500 vị A-la-hán, nhưng Tôn giả Đại Ca-diếp chưa nhất trí. Tôn giả Đại Ca-diếp nói: Tôn giả A-nan tuy đa văn nhưng chưa dứt hết nhiễm ái. Ai còn ái, nhuế, bố, si thì chưa được nhập vào hàng ngũ thánh Tăng để kiết tập. Nhưng, cho dù các vị A-la-hán khác có lý luận rằng: Thưa Tôn giả, tuy Tôn giả A-nan chưa chứng A-la-hán, nhưng Tôn giả đã hầu Phật 25 năm, nghe Phật dạy, nhớ nhiều bài giảng, có thể giúp cho đại hội kiết tập này lắm chứ. Nếu trong khi kiết tập, có điều nào còn nghi thì hỏi Tôn giả A-nan, Tôn giả nói rõ ràng hơn. Vì vậy, chúng Tăng hiện tiền thiết tha đề nghị mời Tôn giả được dự đại hội kiết tập này.
16. Tôn giả A-nan chứng A-la-hán.
Về phần Tôn giả A-nan, khi đi từ rừng Kusinara về chỗ kiết tập, Tôn giả suy nghĩ rằng: một con bò nghé không bao giờ rời vú mẹ. Hôm nay ta đi giữa hàng 449 vị A-la-hán này, ta cũng tương tợ như vậy. Trong khi vừa đi vừa suy nghĩ như vậy thì có Tỳ-kheo Bạt-kỳ-tử đã chứng được thần túc thông và tha tâm thông, nhìn thấy A-nan đi trong đó. Đối với các vị chứng A-la-hán rồi, đi trong đoàn thì thấy đã rõ, nhưng Tôn giả A-nan đã chứng A-la-hán chưa, đã sạch hết dục lậu và vô minh lậu chưa thì chưa thấy rõ, nên thầy liền quán sát kĩ và thấy rõ Tôn giả A-nan chưa sạch hết hữu lậu và vô minh lậu. Với lòng từ tâm, thầy tới khích lệ: Này Hiền giả, Hiền giả hãy nhiếp tâm về Niết-bàn, tư duy về tịch tịnh. Nếu không như vậy thì đa văn cũng không ích lợi gì. Nghe lời khuyên ấy, Tôn giả A-nan chú tâm mãnh liệt
hướng về Niết-bàn, tư duy suốt cả đêm và kinh hành không nghỉ. Khi tướng sáng (bình minh) xuất hiện thì Tôn giả thấy trong mình mệt mỏi quá, định ngồi xuống nghỉ một lát. Vừa ngồi xuống, Tôn giả nghĩ thôi ta nên nằm một chút. Tôn giả vừa đưa cái đầu xuống, đầu chưa tới gối thì tâm đã bừng sáng, chứng được vô lậu. Từ đó, Tôn giả chính thức được dự vào trong hội nghị kiết tập.
17. Tôn giả A-nan sám hối.
Tuy đã chứng A-la-hán, được tham dự hội nghị kiết tập, nhưng Tôn giả cũng bị Tôn giả Đại Ca-diếp vấn nạn, hạch tội. Tôn giả Đại Ca-diếp nói: Tôn giả tuy chứng A-la-hán, các lậu đã tận, được dự vào trong hàng đại A-la-hán để kiết tập Tam tạng, nhưng bị các lỗi trong thời hầu đức Thế Tôn nên phải sám hối trước đã.
Thứ nhất: Tôn giả là người đầu tiên xin Phật cho hàng nữ nhân xuất gia, thế là phạm tội Đột kiết-la, Tôn giả có nhận không?
A-nan đáp:
– Tôi xét việc đó không có lỗi gì, bởi lẽ, tôi thấy di mẫu rất có công lao đối với Thế Tôn cho nên tôi thưa với Thế Tôn, nhắc Thế Tôn nhớ công lao ấy của di mẫu và xin cho bà xuất gia là có nguyên do như vậy, chớ không vô cớ. Nhưng Tôn giả Đại Ca-diếp bảo tôi như vậy, tôi tuân theo lời Đại Ca-diếp xin sám hối.
Thứ hai: Có một lần, Tôn giả may y Tăng-già-lê cho Thế Tôn và Tôn giả đã dẫm chân lên trên y, thế là Tôn giả bất kính, phạm tội Đột-kiết-la. Tôn giả có nhận không?
– Thưa Tôn giả, tôi không phải bất kính đối với Thế Tôn mà dẫm chân lên y đang may cho Thế Tôn. Nhưng vì lúc đó gió to quá mà không có ai đỡ giúp, cho nên lôi buộc lòng phải dẫm lên mé y để giữ cho gió khỏi tung vải lên. Nhưng mà Tôn giả đã nói thế thì tôi xin sám hối.
Thứ ba: Có một lần đức Thế Tôn sai Tôn giả đi lấy nước để Ngài uống. Tôn giả mang bát ra đi nhưng lại mang bát không trở về. Tôn giả nói rằng khúc sông đó vừa có 500 cỗ xe đi ngang qua, nước đục quá không thể dùng được. Tôn giả không biết rằng, nếu yêu cầu chư thiên họ dùng phép lực thì có thể làm cho nước trong để đem về cho Thế Tôn dùng hay sao? Tại sao Tôn giả không làm? Phạm tội Đột-kiết-la.
– Thưa Tôn giả, khi ấy chư thiên thì chưa hiện đến, nhưng Thế Tôn thì Ngài đang cần nước, cho nên tôi quên khẩn cầu chư thiên, nên đã quay về trình với Thế Tôn sự kiện nước đục vì bị 500 cỗ xe vừa đi qua không thể dùng được. Nhưng Tôn giả đã bảo vậy thì tôi xin sám hối.
Thứ tư: Khi đức Thế Tôn tuyên bố 3 tháng nữa là Như Lai nhập Niết-bàn, lẽ đáng Tôn giả hầu Thế Tôn, Tôn giả phải năn nỉ Thế Tôn cửu trú thế gian để lợi lạc hữu tình, nhưng tại sao Tôn giả không xin? Như vậy là phạm tội Đột-kiết-la.
– Tôn giả nói là tôi không muốn xin đức Thế Tôn cửu trú chứ gì? Thú thật, tâm tôi lúc đó như bị ma ám nên tôi không nhận ra, khi nhận ra thì sự đã rồi, tôi rất ân hận. Tôn giả nói tôi phạm tội Đột-kiết-la, tôi xin sám hối.
Thứ năm: Khi đức Phật nhập Niết-bàn, có một bà già nghe tin đến hầu Phật. Bà thương mến Phật quá và đã để rơi nước mắt trên chân Phật, in dấu trên chân Ngài. Sao Tôn giả không can ngăn bà, lại để giọt nước mắt ấy làm ô nhiễm chân Phật. Như vậy là phạm tội Đột-kiết-la.
– Thưa Tôn giả, là người thị giả, khi ấy tôi thấy bà cụ có một lòng cung kính Thế Tôn quá nên tôi không dám can ngăn bà. Nhưng Tôn giả đã bảo có lỗi thì tôi xin sám hối.
Thứ sáu: Trước khi Phật Niết-bàn, Ngài có dạy rằng: Thế Tôn đã dạy giới luật cho hàng tại gia và xuất gia. Riêng hàng Tỳ-kheo thì Ngài có dạy tùy nơi, tùy lúc có thể xả bớt tiểu tiểu giới, nghĩa là có thể bỏ đi những giới điều vụn vặt. Tại sao Tôn giả không thưa Phật, xả tiểu tiểu giới là những tiểu tiểu giới nào? Thế là phạm Đột-kiết-la.
– Thưa Tôn giả, lúc đó tôi cũng quên thưa Phật về chuyện ấy, bây giờ Tôn giả nói tôi mới nhớ. Nay Tôn giả bảo tôi sám hối, tôi cũng xin sám hối.
Khi sám hối xong rồi, Tôn giả mới được tham dự vào trong đại hội kiết tập để tụng đọc về Pháp.