Phật Học Quần Nghi
(Giải thích những nghi vấn trong Phật học)
Phân Viện Nghiên Cứu Phật Học dịch
Hòa Thượng Thích Thánh Nghiêm
Nguồn http://www.tangthuphathoc.com/
—————————————————-
2 – “NHẤT ĐỊNH PHẢI NHÌN THẤU HỔNG TRẦN RỔI SAU MỚI CÓ THỂ HỌC PHẬT” HAY KHÔNG ?
Đây là vấn đề tự hồ như đúng mà lại sau. Hai chữ “Hồng Trần” thực ra không phải là danh từ Phật học, mà xuất xứ từ kho từ vựng văn học Trung Quốc. Nó có ý nghĩa cảnh bụi đất tung bay hoặc là cảnh tượng sinh hoạt phồn hoa.
Bài phú Tây Đô của Ban Cố đời Tây Hán có câu : “Nghẽn thành đầy quách, rẽ ra trăm chợ, hồng trần bốn phía, khói mây nối liền” (điền thành dật quách, bàng lưu bách triền, hồng trần tứ hợp, yên vân tường liên). Đây là hình dung Tây đô Trường An người nhiều, việc nhiều, tiền nhiều, hào hoa náo nhiệt.
Trong bài thơ “Trường Anh cổ ý” của Lư Chiếu Lân có câu : “Liễu yếu hòe xanh buông quệt đất, Hồng trần tiết đẹp bốc mù trời” (nhược liễu thanh hòe phất địa thùy, giai kỳ hồng trần ám thiên khởi).
Trong bài thơ “Thu Nguyệt” (Trăng Thu) của Trình Hiệu đời Tống có câu : “Cách hẳn hồng trần ba mươi dặm, mây trắng lá hồng đều vời vợi !” (Cách đoạn hồng trần tam thập lý, bạch vân hồng điệp lưỡi du du).
Trong hồi thứ nhất truyện Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần cũng nói : “Có thành quanh cửa trời, chính giữa chốn hồng trần, là đất phú quý phong lưu hạng nhất, nhì” (Hữu thành hồi xương môn, tối thị hồng trần trung, nhất nhị đằng phú quý phong lưu chi địa). Đủ thấy hai chữ hồng trần đều là chỉ cảnh tượng phồn hoa phú quý nhân gian, quan trường, thế tục.
Câu “Nhìn thấu hồng trần”, cũng chẳng phải là câu nhà Phật sử dụng mà là từ vựng được thường xuyên sử dụng bởi các nhà văn học từ xưa đến nay ở Trung Quốc đã chịu ảnh hưởng tự nhiên vô vi của Đạo gia và bởi các kẻ sĩ ẩn dật và chán ngán cuộc sống phú quý hư huyễn nơi quan trường, hướng về cuộc sống điền viên nơi rừng núi.
Cho nên “nhìn thấu hồng trần” chính là từ cuộc sống phồn hoa khác nào mây khói lui về sống ẩn dật trong hoàn cảnh sinh hoạt tự do, chất phát, giản dị, tại nơi đồng quê rừng núi.
Phật giáo ở Trung Quốc luôn luôn bị hiểu lầm, Nói chung người ta thường đem phong khí và hiện tượng trốn tránh hiện thực, ẩn dật ở núi rừng qui cho tín ngưỡng Phật giáo và kết quả học Phật. Kỳ thực trong Phật pháp không nói tới “hồng trần”, cũng không nói tới chuyện “nhìn thấu hồng trần” mà chỉ nói tới sáu trần là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đối đãi với Sáu căn : Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân, Ý. Sáu trần là ngoại cảnh, sáu căn là nội cảnh, phải thêm vào sáu thức của Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân, Ý mới có thể sản sinh ra được hiện tượng thân Tâm. Tâm bị ngoại cảnh lay chuyển, cũng tức là bị sáu trần tác động, dùng sáu căn mà tạo ra các hành vi thiện ác tốt xấu. Phật pháp gọi đó là tạo nghiệp. Có thể tạo nghiệp ác, cũng có thể tạo nghiệp thiện. Tạo nghiệp ác thì đọa xuống ba đường ác : địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Tạo nghiệp thiện thì lại được sinh làm người hoặc được sinh lên cõi trời, hưởng thụ phúc báo của Người, của Trời. Thế nhưng bất kể là bị đọa xuống hay được sinh lên, cũng vẫn đều là trong biển khổ luân hồi sinh tử của thế gian.
Muốn giải thoát thì phải nhận thức được sáu trần là hư huyễn, chẳng thực, hay biến đổi.
Kinh Kim Cương hình dung nó như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng. Triệt để giác ngộ được tính chất hư huyễn chẳng thực của thế giới sáu trần thì sẽ được giải thoát tự tại.
Nếu thân tâm ở cõi thế gian sáu trần mà không bị sáu trần quấy nhiễu, dụ dỗ, mê hoặc thì sẽ chẳng sinh ra phiền não và được gọi là người giải thoát.
Đủ thấy : Phật Pháp gọi sáu trần là chỉ hoàn cảnh mà thân tâm đang ở. Cuộc sống phú quý phồn hoa cố nhiên là thuộc về sáu trần nhưng cuộc sống tự nhiên ẩn dật cũng vẫn chưa lìa được sáu trần vì thế Thiền tông có câu : “Bậc đại ẩn ẩn ở chợ búa, kẻ tiểu ẩn ẩn ở núi rừng” (đại ẩn ư thị trần, tiểu ẩn ư sơn lâm). Đây chính là nói : Nếu tâm vẫn còn có điều chấp trước, thân vẫn còn có sự trói buộc thì bất kể là sống trong hoàn cảnh nào cũng đều chẳng được tự tại. Gió to, mưa lớn, muông dữ, chim hung, trùng độc ở nơi sơn dã hoặc các thứ mà người ta thường gọi là non cùng, nước độc, vợ ác, dân điêu đều sẽ gây ra cho bạn phiền não. Còn nếu như tâm không vướng mắc thì ở chốn cung vua, lầu đẹp và nơi hang động lều tranh cũng đều như nhau cả, cần gì phải phân biệt.
Người ta thường nói : “Nhìn thấy hồng trần” tức là cắt tóc làm Tăng, đó có thể là những kẻ thất bại trên đường quan trường sự nghiệp thất bại, hôn nhân ly tán, gia đình tan nát, không còn lòng tin và dũng khí nữa, trong bước đường cùng, đã ngã lòng nản chí bèn tới cửa Phật để tìm một con đường sống tạm qua ngày, gọi là bạn với khánh xanh mõ đỏ cho hết cuộc đời tàn. Cảnh tượng này là vô cùng tiêu cực, bi quan thậm chí còn là bi thảm !
Trong cửa Phật đúng là có hạng người đó. Nhưng đó tuyệt đối chẳng phải là con đường thông thường, con đường đúng đắn của những người học Phật tiến vào cửa Phật.
Tiến vào cửa Phật, trở thành tín đồ Phật giáo thực ra không có nghĩa là cứ phải xuất gia. Tín đồ Phật giáo chia làm hai loại lớn : tại gia và xuất gia, xuất gia chỉ là số ít, tại gia mới là số nhiều trong tín đồ Phật giáo. Xuất gia là đem toàn bộ sinh mệnh gửi gấm vào, có nghĩa là đem thân tâm này cúng dâng Tam Bảo và thí cho chúng sinh là để độ sinh. Cúng dân Tam Bảo là để hoằng dương Phật pháp tiếp nối trí tuệ của Phật. Bố thí cho chúng sinh thì có thể nhiếp hóa, cứu giúp chúng sinh trong biển khổ.
Có thể xả được điều khó xả, nhẫn được điều khó nhẫn, đó mới thực là mục đích đúng đắn của xuất gia. Xả được điều khó xả là vứt bỏ danh lợi, vật dục; nhẫn được điều khó nhẫn là gánh vác sự nghiệp của Như Lai và khổ nạn của chúng sinh. Cho nên cái gọi là “nhìn thấu hồng trần” thật ra không có quan hệ gì với tôn chỉ xuất gia.
Còn những người xuất gia học Phật có thể bao gồm tất cả mọi tầng lớp xã hội, họ tuyệt nhiên chẳng phải là để trốn tránh hiện thực mà chính là để hòa với mọi người là đưa lại thanh tịnh cho mọi người, cũng tức là Phật hóa mọi người.
Nếu sau khi học Phật mà lại lìa khỏi mọi người, lìa đàn ở lẽ, thế là làm trái với tôn chỉ Phật hóa mọi người. Người tại gia học Phật, theo nguyên tắc sinh hoạt năm giới, mười điều lành, đối với gia đình, xã hội, đất nước đều phải làm hết trách nhiệm, làm hết bổn phận của mình. Bởi vậy, người xuất gia sau khi học Phật sẽ càng tích cực hơn đối với cuộc sống và đối với trách nhiệm của mình. Đó cũng chính là nguyên nhân khiến Phật Giáo Đại Thừa phân chia hình tượng của Bồ Tát ra làm hai loại xuất gia và tại gia. Bồ Tát tại gia là tướng trời người phúc đức trang nghiêm.
Noi theo ý nguyện của “nhìn thấu hồng trần” thì là tiêu cực, còn học Phật lại là tích cực.
Chúng ta có thể chia hình thái sinh hoạt và tâm thái sinh hoạt của loài người ra làm ba loại :
Loại thứ nhất chiếm đa số tuyệt đối là thuộc loại luyến thế, đối với bất cứ sự vật gì cũng đều không buông bỏ được : tranh danh đoạt lợi, ăn uống trai gái, đắm say trong cuộc sống, khổ não suốt đời mà chẳng biết sinh từ đâu tới, chết sẽ đi đâu ? Lúc đáng sống thì khư khư chẳng buông tha, lúc sắp chết thì bịn rịn bỏ chẳng được, cho nên Phật gọi họ là những kẻ đáng xót thương.
Loại thứ hai là loại người yếm thế. Họ hoặc là giận đời, ghét tục, hoặc tiếc rẽ có tài mà không gặp vận may; hoặc là tiêu cực, bi quan, đối với sinh mệnh giữ một thái độ cam chịu chẳng biết xoay sở ra sao. Vì thế, hạng người trước sẽ biến thành những người diễu cợt cuộc đời, hoặc rút lui khỏi vũ đài xã hội mà sống cuộc sống ẩn dật; hạng người sau nếu chẳng tự sát mà chết thì cũng trốn tránh hiện thực, uất ức mà chết.
Loại thứ ba là thuộc về loại người buông được ra, nhấc được lên. Họ nhìn thấy con người đau khổ, thế sự hiểm nguy, đem hoài bảo xót trời thương người ra mà cứu vớt chúng sinh thế gian ở trong vòng nước sôi lửa bỏng, dù cho phải vượt núi băng ngàn thậm chí là khuôn mẫu của những bậc được người đời sau được gọi là hiền giả và thánh nhân.
Theo quan điểm của Phật giáo thì loại người thứ nhất có căn tính phàm phu; loại người thứ hai giống như người có căn tính tiểu thừa; loại người thứ ba giống như có căn tính đại thừa.
Song nếu dùng Phật pháp mà hóa đạo thì loại người thứ nhất dẫu là phàm phu, cũng có thể dần dần tiếp tu được trí tuệ, hiểu thấu hiện tượng thế gian, mọi người giảm bớt phiền não cho mọi người, giảm bớt tai họa cho xã hội. Loại thứ hai căn tính tiểu thừa thì chỉ ít không biết giận đời ghét tục, hoặc giả nghĩ quẫn tự sát, còn thì sẽ tích cực tu hành, sớm cầu thoát ra khỏi biển khổ sinh tử, hơn nữa cũng có thể vì mọi người nêu điển hình và tấm gương về tự mình phấn đấu nỗ lực, tự mình cứu mình.
Loại thứ ba căn tính đại thừa thì có thể nhờ sự hóa đạo của Phật pháp mà có một sinh mệnh vô hạn, một lời nguyện từ bi vô hạn, đời đời kiếp kiếp phát tâm bồ đề, tu hành đạo Bồ Tát, Phật hóa nhân gian, thành đạt tới nước Tịnh độ của Phật (không chỉ độ người mà còn độ cho hết thảy mọi chúng sinh). Họ sẽ không vì trở ngại mà thất vọng, cũng không vì thuận lợi mà cuồng nhiệt, luôn luôn nỗ lực xúc thành nhân duyên, lẳng lặng cày bừa, thành công không hẳn tại ta, nhưng vẫn cứ tinh tiến mãi mãi không lười. Thái độ học Phật như vậy đương nhiên không có dính dáng gì với quan niệm “Nhìn thấu hồng trần”!.