KINH PHẬT VÀ CÁC NGHI THỨC
Thích Đạt Ma Phổ Giác biên soạn
Chùa Thiên Khánh
Nhà Xuất Bản Hồng Đức
NGHI THỨC TỤNG KINH BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM
NGUYỆN HƯƠNG
Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo tác đại chứng minh. (O)
Nam mô Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni tác đại chứng minh. (O)
Nam mô Bồ-tát Quán Thế Âm tác đại chứng
minh. (O)
Nam mô Phật hoàng Trần Nhân Tông tác đại chứng minh. (O)
Nam mô chư liệt vị tiền nhân ông bà tổ tiên tác đại chứng minh. (O)
Nam mô chư vị tổ sư Ấn Độ Trung Hoa Việt
Nam tác đại chứng minh. (O)
Chủng con….
Đốt nén tâm hương nguyện chí thành,
Nhất tâm cung kính Phật Bồ-tát
Nguyện cầu Tam bảo thường gia hộ,
Hạnh phúc bình an khắp muôn loài.
Nam mô Bồ-tát hương cúng dường. (3 lần)
(OOO)
Hôm nay là ngày … tất cả đệ tử chúng con thành tâm quỳ trước Phật đài tác lễ sám hối cầu an, tụng kinh Hạnh Nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm, cung kính bậc thầy ba cõi, chí tâm, chí thành cầu xin sám hối, tất cả tội lỗi cố ý hay vô tình đã tạo ra trong quá khứ cũng như hiện tại, hết thảy đều được tiêu trừ.
Cúi mong Tam Bảo thường ở mười phương quang giáng đạo tràng chứng minh cho lòng thành của chúng con, khiến chúng con oan khiên dứt sạch, bệnh căn thuyên giảm, gia quyến an khang, lòng tin Tam Bảo càng sâu, tâm từ đối với chúng sinh tăng trưởng.
Nguyện cho chánh pháp được lan truyền khắp chốn, lời Phật dạy được phổ biến muôn nơi, người người từ bỏ tham, giận, si mê, tưới tẩm từ bi, hạnh phúc, thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, làm lành lánh dữ, thế giới dứt nghiệp binh đao, muôn loài an vui giải thoát.
Tất cả đệ tử chúng con thành tâm quỳ trước Phật đài đồng sám hối cầu siêu, hồi hướng cho các hương linh, anh linh các oan hồn uổng tử, các chiến sĩ trận vong, các anh hùng nghĩa tử được thính pháp nghe kinh, được thừa tư công đức, phát tâm tỉnh giác, lìa khổ tối tăm, khởi niệm từ bi, xa rời đường dữ, tin sâu Tam Bảo, tin cõi Phật an vui.
Khắp nguyện: Kẻ mất siêu thăng, người còn phúc lạc, chúng sinh được thấm nhuần mưa pháp, mọi người đều chứng ngộ Phật thừa.
Nam-mô Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni.(OOO)
CA NGỢI TAM BẢO
Phật là đấng giác ngộ mình,
Độ người thoát khỏi, tử sinh bao đời.
Từ bi, trí tuệ rạng ngời,
Là thầy ba cõi, trời người xưa nay.
Pháp là phương thuốc diệu thay,
Chữa lành bệnh khổ, muôn loài chúng sinh. Như vầng trăng sáng lung linh,
Soi đường ra khỏi, u minh mê mờ.
Tăng là những bậc chân tu,
Biết đời huyễn mộng, giã từ ra đi.
Thấm nhuần trí tuệ, từ bi,
Độ đời thoát khỏi tham si…. khổ sầu.
Nam mô hoan hỷ tạng Bồ tát. (3 lần)
TÁN DƯƠNG GIÁO PHÁP
Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp Nay con nghe thấy xin trì tụng Nguyện hiểu chân kinh nghĩa nhiệm mầu
Nam mô khai pháp tạng Bồ-tát Ma Ha Tát. (3 lần)
TÁN PHẬT
Đại từ đại bi thương chúng sinh.
Đại hỷ đại xả cứu muôn loài.
Tướng đẹp sáng ngời dùng trang nghiêm. Chúng con chí tâm thành đảnh lễ.
ĐẢNH LỄ TAM BẢO
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư Phật ba đời thường trú trong mười phương. (Lạy một lạy) (O) Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chánh pháp ba đời thường trú trong mười phương. (Lạy một lạy) (O) Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Tăng bậc Hiền Thánh ba đời thường trú trong mười phương. (Lạy một lạy) (OOO)
(Bắt đầu vô chuông mõ)
Một tiếng chuông ba tiếng mõ.
Một tiếng chuông một tiếng mõ.
Một tiếng chuông một tiếng mõ.
Một tiếng chuông năm tiếng mõ.
SÁM CẦU NGUYỆN QUÁN THẾ ÂM
Con quỳ, lạy Phật, chứng minh,
Với lòng thành kính, tụng kinh nguyện cầu. Cầu cho, người vật, hiện tiền,
Muôn loài thoát khổ, bình yên an lành. (O) Mười hai, nguyện lớn, Quán Âm,
Phát tâm vào đời, để độ chúng sinh.
Lòng thành, tín nữ, thiện nam,
Cùng nhau niệm Phật, ăn chay làm lành.
Quán Âm, xem xét, lắng nghe,
Cứu người chìm nỗi, lênh đênh sông dài.
Hãy mau, niệm Đức Quán Âm,
Tai qua nạn khỏi, hiểm nguy không còn. Người người, bị lửa đốt thiêu.
Niệm danh Bồ-tát, hóa ra sen vàng.
Biển to, sóng lớn, chìm thuyền,
Niệm danh Bồ-tát, sóng to hết liền.
Yêu tinh, ma mị, điên khùng,
Niệm danh Bồ-tát, bình yên cõi lòng.
Vào rừng, thú dữ, chực chờ,
Niệm danh Bồ-tát, chúng liền tránh xa.
Bị tù, bị tội, khảo tra,
Niệm danh Bồ-tát, hết cơn nguy nàn. (O) Bị trù, bị yếm, mê man.
Niệm danh Bồ-tát, tâm thần sáng trong.
Quán Âm, nguyện lớn, vào đời,
Tùy duyên cứu khổ, rải ban phước lành. Nương theo, Bồ-tát, Quán Âm,
Thấy mình thể nhập, cũng y như Ngài.
Tay cầm, bình nước, tịnh bình,
Tay cầm nhành liễu, ung dung vào đời.
Cam lồ, chan rải, khắp nơi,
Vui tươi mát mẻ, chúng sinh muôn loài.
Quán Âm, thị hiện, vào đời,
Giúp người thoát khổ, an vui lâu dài. (OOO)
PHÁT NGUYỆN TRÌ KINH
Lạy đấng thầy ba cõi,
Quy mạng Phật mười phương,
Nay con phát nguyện lớn,
Thọ trì kinh Hạnh nguyện,
Bồ-tát Quán Thế Âm,
Phật dạy Người Tại Gia,
Kinh Phân Biệt Nghiệp Báo,
Kinh Lời dạy Cuối Cùng,
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ muôn loài,
Nguyện cho người thấy nghe,
Đều phát tâm Bồ đề,
Sống an vui giải thoát.
Nam mô Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni. (3 lần) (OOO)
KINH HẠNH NGUYỆN BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM
Tôi nghe như vầy: Có vị Bồ-tát, hiệu Vô tận Ý, ở trong pháp hội, hoa sen chánh pháp, chấp tay bạch Phật, cung kính thưa rằng: “ Bạch đức Thế tôn, ngài Quán Thế Âm, do nhân duyên gì, được danh hiệu ấy?”
Này Vô Tận Ý, này các Bồ-tát, nếu có muôn ức, các loài chúng sinh, chịu nhiều khổ nạn, khi nghe được tên, Bồ-tát Quán Âm, một lòng xưng danh, thọ trì miên mật, đều được an vui, giác ngộ giải thoát. (O)
Nếu ai bất hạnh, bị lửa đốt thiêu, xưng niệm Quán Âm, nhờ sức oai thần, lửa chẳng đốt cháy. Lại nếu có người, bị nước cuốn trôi, niệm danh
Bồ-tát, nhờ sức oai thần, liền đến chỗ cạn. Nếu ai đi thuyền, để tìm châu báu, vàng bạc lưu ly, trân châu mã não, hỗ phách xà cừ, san hô ngọc quý, lênh đênh biển lớn, giông gió cuốn trôi, vào nước La sát, thì nên thành tâm, trì niệm Quán Âm, nhờ sức oai thần, bình yên vô sự. (O)
Lại nếu có người, sắp bị hãm hại, bằng dao gậy kiếm, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ-tát, do đó dao gậy, liền biến thành không, và được cứu thoát. Nếu bị các loài, La sát Dạ xoa, làm hại thân này, hãy niệm Quán Âm, nhờ sức oai thần, quỷ dữ bỏ đi.
Lại nếu có người, bị tù bị tội, xiềng xích gông cùm, khổ đau trói buộc, khắp cả toàn thân, nhờ niệm Quán Âm, thoát khỏi tù đày, dứt lìa oan nghiệt.
Lại nếu có người, mang nhiều châu báu, bị cướp tấn công, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ- tát, nhờ sức oai thần, bọn cướp khiếp sợ, không dám hãm hại.
Này Vô Tận Ý, Bồ-tát Quán Âm, có sức oai thần, nhiệm mầu như thế, công đức sâu dày, không thể nghĩ bàn, rộng độ chúng sinh. Vì thế, các ông nên thường, niệm danh Bồ-tát, một lòng tinh chuyên.
Nếu có chúng sinh, tham lam ích kỷ, giận hờn ngu si, phải thường cung kính, niệm danh Bồ-tát, thì tham sân si, thảy đều tan biến.
Lại nếu có người, cầu xin con trai, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ-tát, nhờ sức oai thần, liền sinh con trai, phước đức đầy đủ, trí tuệ hơn người.
Lại nếu có người, muốn cầu con gái, thì nên thành tâm, niệm danh Bồ-tát, nhờ sức oai thần, hạ sinh thục nữ, xinh đẹp kiều diễm, thì được nhiều người, yêu thích mến thương.
Thần lực Quán Âm, nhiệm mầu như thế! Ta khuyên mọi người, cung kính đảnh lễ, niệm danh Bồ-tát, tán thán thọ trì, để được lợi lạc, khắp cả chúng sinh.
Sau khi nghe xong, ngài Vô Tận Ý, liền hỏi Phật rằng: “ Bồ-tát Quán Âm, phát tâm vào đời, cứu độ chúng sinh, bằng phương tiện gì, giúp cho muôn loài, thảy đều tỏ ngộ?”.
Này Vô Tận Ý: “Nếu có chúng sinh, thích dùng thân Phật, để được độ thoát, chứng nên quả giác, thì Quán Thế Âm, thị hiện thân Phật, vì họ thuyết pháp.”
Tương tự như thế, tùy theo sở thích, của các chúng sinh, Bồ-tát Quán Âm, ứng hiện nhiều thân, như thân Thanh Văn, thân Bích Chi Phật, hoặc Trời Đế thích, hoặc Trời Phạm vương, thân Tự Tại Thiên, đại Tự Tại Thiên, Trời Đại Tướng Quân, hoặc Tỳ Sa môn, tiểu vương trưởng giả, vua quan cư sĩ, hoặc Bà la môn, tín nữ thiện nam, hoặc làm Tăng Ni, hoặc thân công chúa, nữ hoàng tôn quý, đồng nam đồng nữ, hoặc ứng hiện thân: Trời, Rồng, Dạ xoa, hoặc Càn thát bà, hoặc A tu la, hoặc Câu lâu la, hoặc Khẩn na la, Ma hầu na già, thần Chấp Kim Cang, tất cả băm ba, ứng thân
sai khác, giúp cho mọi người, an vui giải thoát, thì Quán Thế Âm, sẵn sàng hóa thân, không chút quản ngại. (O)
Này Vô Tận Ý, Bồ-tát Quán Âm, ứng hiện nhiều thân, cứu độ chúng sinh, khắp cả thế gian, không thể nghĩ bàn. Vì thế các ông, hãy nên một lòng, tán thán cúng dường, Bồ-tát Quán Âm. (O)
Này Vô Tận Ý, thí không sợ hãi, trong chốn trần gian, cứu khổ chúng sinh, tai qua nạn khỏi, chính là nguyện lớn, Bồ-tát Quán Âm, nên cõi Ta Bà, thảy đều gọi ngài, là Quán Tự Tại. (O)
Sau khi nghe xong, ngài Vô Tận Ý, xin thưa đức Phật, cho con cúng dường, Bồ-tát Quán Âm. Nói xong ngài đem, chuỗi ngọc như ý, tặng làm pháp thí, giá trị ngàn vàng, cung kính cúng dường, Bồ-tát Quán Âm. Bồ-tát Quán Âm, không dám chịu nhận, chuỗi ngọc như ý. Phật liền dạy rõ, về pháp cúng dường, khuyên Quán Thế Âm, hãy vì bốn chúng, tám bộ trời rồng, và Vô Tận Ý, nhận chuỗi pháp thí, lợi ích trời người.
Phật vừa dứt lời, Bồ-tát Quán Âm, vui vẻ đón nhận, chia làm hai phần, một phần dâng cúng, đức Phật Thích ca, còn lại phần kia, cúng tháp Đa Bảo. (O)
Bấy giờ trong hội, có vị Bồ tát, tên là Trì Địa, chấp tay thưa Phật : “Bạch đức Thế tôn, nếu có chúng sinh, nghe được kinh này, cũng như công đức, ứng hiện các thân, tùy duyên giáo hóa, của ngài Quán Âm, thì phước người ấy, vô lượng
vô biên”. (O)
Khi nghe Phật nói, hạnh nguyện Quán Âm, tám mươi bốn ngàn, các loại chúng sinh, thảy đều phát tâm, Vô Thượng Chánh Giác.
Nam mô Pháp Hoa hội thượng Phật Bồ-tát.
(3 lần) (OOO)
BÀI 2: PHẬT DẠY TRÁCH NHIỆM NGƯỜI TẠI GIA
KINH THIỆN SINH
Tôi nghe như vầy, một thời Thế Tôn, ở chùa Trúc Lâm, gần thành Vương Xá. Vào buổi sáng sớm, Ngài đắp y vàng, mang bát khất thực. Thế Tôn trông thấy, thanh niên Thiện Sinh, lễ bái sáu phương, Đông Nam Tây Bắc, trên dưới trọn vẹn, Phật hỏi lễ lạy, như thế được gì. Thiện Sinh trả lời: Thân phụ qua đời, có dạy con rằng, thường lễ sáu phương, phước đức vô lượng. Phật mới dạy rằng: Lễ bái sáu phương, trong đạo thánh hiền, không giống như vậy.
Thiện Sinh nghe Phật, nói khác lời cha, y pháp thỉnh cầu, giảng dạy đạo lý, các bậc hiền Thánh, đức Phật dạy rằng: Nầy chàng thanh niên, phương đông cha mẹ, phương nam thầy tổ, phương tây vợ chồng, phương bắc bạn bè, phương dưới giúp việc, phương trên Sa môn.
Nầy chàng thanh niên, đối với phương đông, hiếu kính cha mẹ, người con nên làm, năm việc như sau:
Một là phụng dưỡng cha mẹ sớm hôm Hai là làm công việc thay cha mẹ Ba là biết cách gìn giữ gia phong Bốn là khéo giữ tài sản kế thừa Năm là tạo phước hướng hồi tổ tiên Đáp lại cha mẹ, nên làm như sau:
Một là ngăn con không làm điều ác.
Hai là dạy con nên làm việc lành.
Ba là hướng dẫn nghề nghiệp chân chính.
Bốn là cưới vợ gã chồng cho con.
Năm trao tài sản kế thừa mai sau.
Đó là cách thức, lễ bái phương đông, tức là đạo nghĩa, cha mẹ con cái. Nếu làm như vậy, sẽ được an lạc, không gì sánh bằng.
Nầy chàng thành niên, lễ bái phương nam, tức lễ thầy tổ, là người học trò, nên làm năm việc:
Một là giữ lòng kính mến tôn trọng Hai là quan tâm săn sóc chu đáo Ba là chăm chỉ học hành đến nơi Bốn là đáp ứng khi có việc cần Năm là hấp thụ những gì truyền dạy Đối lại với trò, thầy làm năm việc:
Một là dạy trò chuyên môn của mình Hai là dùng các phương pháp dễ hiểu Ba là không giấu nghề nghiệp của mình Bốn là giới thiệu để trò tiến thân Năm là bố trí an toàn cho trò
Đó là cách thức lễ bái phương nam, đạo nghĩa thầy trò. Ai làm như vậy, sẽ được an lạc, không gì sánh bằng.
Nầy chàng thanh niên, đối với phương tây, đạo lý chồng vợ, chồng làm năm việc:
Một là đối xử hoà ái
Hai là không khi bạc đãi khinh khi
Ba là một dạ thủy chung trọn đời
Bốn là giao quyền quản lý gia đình
Năm biết quan tâm mua sắm tư trang cho vợ
Đáp lại với chồng, người vợ nên làm:
Một là quán xuyến công việc gia đình
Hai là cư xử bình đẳng họ hàng
Ba là một dạ giữ lòng tiết hạnh
Bốn là gìn giữ tài sản nhà chồng
Năm cần mẫn trong trách nhiệm bổn phận.
Đó là cách thức lễ bái phương tây, đạo nghĩa vợ chồng. Ai làm như vậy, sẽ được an lạc, không gì sánh bằng.
Nầy chàng thanh niên, đối với phương bắc, tức là bạn bè nên làm năm việc:
Một là rộng rãi
Hai là nhã nhặn
Ba là quan tâm lợi ích của bạn
Bốn là đồng cam cộng khổ khi cần
Năm là thành thật
Đối với bạn tốt, nên làm năm việc:
Một cảnh giác bạn trước những cám dỗ
Hai là giữ hộ tài sản khi bạn sa ngã thất thế
Ba là làm nơi, nương tựa cho bạn, gặp lúc sa cơ
Bốn không bỏ bạn lúc gặp nguy biến
Năm cư xử tốt người thân của bạn
Đó là cách thức lễ bái phương nam, đạo nghĩa bạn bè. Ai làm như vậy, sẽ được an lạc, không gì sánh bằng.
Nầy chàng thanh niên, đối với phương dưới, tức người giúp việc, người chủ nên làm:
Một không giao việc quá sức cho phép
Hai trả thù lao tương xứng việc làm
Ba là chăm sóc khi bị đau yếu
Bốn là chia sớt món ngon vật lạ
Năm là không bắt làm việc quá giờ
Đối lại với chủ, là người giúp việc, nên làm như sau:
Một thức trước chủ Hai ngủ sau chủ
Ba là không lấy, những thứ không cho
Bốn là siêng năng làm việc tận tình
Năm là biết giữ tiếng tốt cho chủ
Đó là cách thức lễ bái phương dưới, đạo ghĩa chủ tớ. Ai làm như vậy, sẽ được an lạc, không gì sánh bằng.
Nầy chàng thanh niên, đối với phương trên, đạo lý sa môn, thì người cư sĩ, nên làm năm việc:
Một là cử chỉ thân thiện tôn trọng Hai là lời nói hày hòa dễ thương Ba là tư tưởng hướng về thân thiện Bốn luôn mở rộng giao thiệp đón tiếp Năm là cúng dường tứ sự đủ đầy Đối với cư sĩ, sa môn nên làm:
Một là hướng dẫn tránh xa điều ác Hai là hướng dẫn luôn làm việc lành Ba luôn cư xử với tâm từ ái Bốn là giảng giải đạo lý chân thật Năm là chỉ đường an vui hai đời
Đó là cách thức lễ bái phương nam, đạo nghĩa tăng tục. Ai làm như vậy, sẽ được an lạc không gì sánh bằng.
Nghe đức Thế Tôn, chỉ dạy như thế, thanh niên Thiện Sinh, vui vẻ hoan hỷ: Pháp Phật vi diệu, bạch đức Thế Tôn, như người lật lên, những gì úp xuống, phơi bày tất cả những gì che phủ, chỉ đường dẫn lối, cho người u mê, quay về bờ giác. Con xin qui Phật, con xin qui Pháp, con xin qui Tăng, quyết làm đệ tử, cho đến trọn đời.
BÀI 3: KINH BÁO ÂN CHA MẸ
Một thuở nọ, Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ Viên Trung Chư Tăng câu hội rất đông Tính ra tới số hai muôn tám ngàn.
Lại cũng có các hàng Bồ Tát Hội tại đây đủ mặt thường thường.
Bấy giờ, Phật mới lên đường
Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành.
Đến giữa đường, rành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng.
Đức A Nan tủi lòng ái ngại Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương? Vội vàng xin Phật dạy tường Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài Ai ai cũng kính Thầy dường ấy Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: Trong các môn đồ,
Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công Bởi chưa biết đục trong cho rõ Nên vì ngươi, ta tỏ đuôi đầu Đống xương dồn dập bấy lâu Cho nên trong đó biết bao cốt hài Chắc cũng có ông bà cha mẹ Hoặc thân ta, hoặc kẻ ta sanh Luân hồi sanh tử, tử sanh Lục thân đời trước thi hài còn đây Ta lễ bái kính người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa Đống xương hỗn tạp chẳng vừa Không phân trai gái bỏ bừa khó coi Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ Phân làm hai, bên nữ bên nam Để cho phân biệt cốt người Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng. Đức A Nan trong lòng tha thiết Biết làm sao phân biệt khỏi sai Ngài bèn xin Phật chỉ bày Vì khó chọn lựa gái trai lúc này Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt Cách đứng đi ăn mặc phân minh Chớ khi rã xác tiêu hình Xương ai như nấy khó nhìn khó phân. Phật mới bảo: A Nan nên biết Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Đàn ông xương trắng nặng hoằng Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn. Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc, bốn đấu sữa hòa nuôi con
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn đàn ông.
A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân?
Thế Tôn mới giảng ân cần
Vì ngươi ta sẽ phân trần lóng nghe!
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc Sanh đặng con mười tháng cưu mang Tháng đầu thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường.
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng.
Tháng thứ sáu lục căn đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn.
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng thì đến kỳ sinh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng, đạp quấy lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau, sự khổ, khôn cùng tỏ phân.
Khi sinh sản muôn phần an lạc Cũng ví như được bạc, được vàng.
Thế Tôn lại bảo A Nan!
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin. Điều thứ nhứt: Giữ gìn thai giáo Mười tháng trường chu đáo mọi bề.
Thứ hai: Sanh đẻ gớm ghê Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần. Điều thứ ba: Thâm ân nuôi dưỡng Cực đến đâu bền vững chẳng lay.
Thứ tư: Ăn đắng uống cay Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con.
Điều thứ năm: Lại còn khi ngủ Ướt mẹ nằm khô ráo phần con.
Thứ sáu: Bú sữa nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê.
Điều thứ bảy: Không chê ô uế
Giặt đồ bẩn của con không phiền.
Thứ tám: Chẳng nỡ chia riêng Nếu con đi vắng cha phiền, mẹ lo.
Điều thứ chín: Miễn con sung sướng Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam Tính sao có lợi thì làm Chẳng màng tội lỗi, bị giam, bị cầm. Điều thứ mười: Chẳng ham trau chuốt Dành cho con các cuộc thanh nhàn Thương con như ngọc như vàng Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng thái sơn.
Phật lại bảo A Nan nên biết!
Trong chúng sanh tuy thật phẩm người Mười phần mê muội cả mười Không báo ơn trọng đức dày song thân. Chẳng kính mến quên ơn trái đức Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu đừng giao hết Vì những người ấy đời nào nên thân. Mẹ sanh con cưu mang mười tháng Cực khổ dường gánh nặng trên vai Uống ăn chẳng đặng vì thai Cho nên thân thể hình hài kém suy. Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề Ví như thọc huyết trâu dê Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan. Con còn nhỏ lo toan săn sóc Ăn đắng cay, bùi ngọt phần con Phải tắm phải giặt rửa trôn Biết rằng dơ dáy, mẹ không ngại gì. Nằm phía ướt, con nằm phía ráo Sợ cho con ướt áo, ướt chăn Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân
Ắt con phải chịu trăm phần cực thân. Trọn ba năm bú nương sữa mẹ Thân gầy mòn nào nệ với con Khi con vừa được lớn khôn Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng.
Cho đi học mở thông trí huệ Dựng vợ chồng có thế làm ăn Ước mong con được nên thân Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi.
Con đau ốm tức thì lo chạy Dầu tốn hao đến mấy cũng đành Khi con căn bệnh đặng lành Thì cha mẹ mới an thần định tâm. Công dưỡng dục sánh bằng non biển Cớ sao con chẳng biết ơn này Hoặc khi lầm lỗi bị rầy Chẳng tuân thì chớ, lại bày ngổ ngang.
Hỗn cha mẹ, phùng mang trợn mắt Khinh trưởng huynh, nộ nạt thê nhi Bà con chẳng kể ra chi Không tuân Sư Phụ, lễ nghi chẳng tường. Lời dạy bảo song đường không kể Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng Trái ngang chống báng mọi đàng Ra vào lui tới mắng càn người trên.
Vì lỗ mãng tánh quen càn bướng Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn Lớn lên theo thói hung hăng Đã không nhẫn nhịn, lại càng làm hung. Bỏ bạn lành, theo cùng chúng dữ Nết tập quen, làm sự trái ngang Nghe lời dụ dỗ huênh hoang Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người.
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân, tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công.
Vì ràng buộc đồng công mối nợ Hoặc trở ngăn vì vợ, vì con Quên cha, quên mẹ ân sâu Quên xứ, quên sở, lâu năm không về.
Ây là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hí mà thôi
Sau khi phá hết tiền của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng tiêu.
Theo trộm cướp, hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù rạc phải vương
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng, bỏ thân ngoài đồng.
Hay tin dữ bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu
Thương con than khóc âu sầu Có khi mang bịnh đui mù vấn vương.
Hoặc bịnh nặng vì thương quá lẽ Phải bỏ mình làm quỉ giữ hồn Hoặc nghe con chẳng lo lường Trà đình tửu điếm phố phường ngao du.
Cứ mải miết với đồng bất chính Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khan Làm cho cha mẹ than van Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời.
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thốn thiếu mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rên
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương.
Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai, dễ khiến hơn là nam nhi.
Song đến lúc, tùng phu xuất giá Lo bên chồng chẳng sá bên mình Trước còn lai vãng đến thăm Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà.
Quên dưỡng dục song thân ân trọng Không nhớ công mang nặng đẻ đau Chẳng lo báo bổ cù lao Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay!
Nếu cha mẹ la rầy quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Đến khi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than.
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay.
Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi
Đập vào mình, vào mũi, vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy đều rướm máu ướt đầm cả thân.
Đến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng
Bọn con quả thật tội nhân
Xưa nay chẳng rõ, không hơn người mù.
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu.
Trước Phật tiền ai cầu trần tố
r ru r
Ỵ • rpl /V rp /V Ä A 1′ 1 A
Xin Thế Tôn mân cố bi lân Làm sao báo đáp thù ân Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình? Phật bèn dùng phạm thanh sáu món
Phân tỏ cùng đại chúng lắng nghe
Ân cha, nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu.
Ví có người ân sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp Tu Di núi chẳng sai
Đến trăm ngàn kiếp ân kia chưa vừa.
Ví có người gặp cơn đói rét Nuôi song thân dâng hết thân này Xương nghiền thịt nát phân thây Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng.
Ví có người vì công sanh dưỡng Tự tay mình khoét thủng song ngươi Chịu thân mù tối như vầy Đến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu.
Ví có người cầm dao thật bén Mổ bụng ra rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng.
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Đâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền.
Ví có người vì công dưỡng dục
Tự treo mình, cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền.
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan, thịt nát chẳng phiền
Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng.
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền.
Nghe Phật nói thảy đều kinh khủng
Giọt lệ tràn khó nỗi cấm ngăn
Đồng thanh bạch Phật lời rằng
Làm sao trả đặng ân thâm song đường?
Phật mới bảo các hàng Phật tử
Phải lắng nghe Ta chỉ sau này
Các ngươi muốn đáp ơn dày
Phải nên biên chép Kinh đây lưu truyền.
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam Bảo sớm trưa
Cùng là tu phước, chẳng chừa món chi.
Rằm tháng bảy đến kỳ Tự Tứ
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng.
Đặng cầu nguyện song đường trường thọ Hoặc sanh về Tịnh Độ an nhàn Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình.
Phật tử phải cần chuyên trì giới
Pháp Tam Quy, ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy hôm nay
Các ngươi nhớ lấy từ đây phụng hành.
Được như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhứt, thật là trọng thay.
Sau khi chết, bị đày vào ngục Ngũ Vô Gián cũng gọi A Tỳ Ngục này trong núi Thiết Vi Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề. Trong ngục này hằng ngày lửa cháy
Đốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội cang hành hình.
Vì bất hiếu nên mình thọ khổ
Lột thịt ra máu đổ tràn lan
Lại có chó sắt cắn gan
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhân.
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhân nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phồng thịt thau.
Móc bằng sắt thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể như dưa chín muồi.
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi le.
Nếu mà đặng chết liền đã đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây.
Sự hành phạt tại A Tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoảng trên.
Nhất là phải Kinh nầy in chép
Truyền bá ra cho khắp đông tây
Như ai chép quyển Kinh này
Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn.
Nếu in được ngàn muôn quyển ấy Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ sở nguyện viên dung.
Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh
Lại hóa sanh về cõi thiên cung
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng.
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho kéo lưỡi trâu cày
Đến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên.
Ví như bị trăm ngàn dao mác
Khắp thân này đâm chém phanh thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời thầy chẳng sai.
Dẫu thân này bị cưa bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Đến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời thầy khuyên.
Đức A Nan kiền thành đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh Ngày sau lưu truyền chúng sanh Dễ bề phúng tụng kiên tinh tu hành Phật mới bảo A Nan nên biết Quyển Kinh này quả thiệt cao xa Đặt tên «BÁO HIẾU MẸ CHA»
Cùng là “ÂN TRỌNG” thật là chân Kinh. Các ngươi phải giữ gìn chu đáo Đặng đời sau y giáo phụng hành.
Sau khi Phật dạy đành rành Bốn hàng Phật tử tâm thành vui theo Thảy một lòng vâng theo lời Phật Và kính thành tin chắc vẹn truyền Đồng nhau trở lại Phật tiền Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra.
BÀI 4: KINH LỜI DẠY CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT
Chính tôi được nghe: lần chuyển bánh xe chánh pháp đầu tiên, Đức Thế Tôn độ tôn giả Kiều-trần- như và lần thuyết pháp sau cùng, Ngài độ tôn giả Tu-bạt-đà-la. Những người có thể hóa độ, Ngài đã hóa độ tất cả. Vào đêm cuối trước ngày Niết-bàn vô dư, giữa rừng Sa-la, dưới cây song thọ, không gian thật vắng lặng, yên tĩnh, Đức Phật đã nhắn nhủ những điều cốt lõi của chánh pháp như sau. O
1- Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt. Phải biết rằng giới luật là bậc Thầy tối thượng. Dẫu có sống thêm ở đời bao nhiêu năm
nữa, Như Lai cũng không ngoài mục đích răn dạy các vị về giới luật ấy thôi. (O)
Người giữ giới thì không được kinh doanh, thương mại, xây dựng nhà cửa, cày cấy ruộng vườn, đầu tư nông nghiệp, thuê người giúp việc, theo kiểu thế tục. Không được chặt đốn cây cối, đào đất, móc hang, điều chế dược liệu, đoán quẻ tốt xấu, xem sao đoán mạng, nghiên cứu địa lý, tìm tòi hưng suy, hay coi lịch đoán số. (O)
Các vị nên sống tiết chế thân mạng, ăn uống điều độ, duy trì nếp sống thanh cao, giải thoát. Không tham dự chính trị, lãnh sứ mạng liên lạc, thông tin. Không được luyện bùa chú, chế linh dược, giao hảo người quyền quý, kết thân kẻ ngạo mạn. Cần phải giữ tâm chân thật, sống chánh niệm và tỉnh thức trong từng phút giây, mong cầu đạo quả giải thoát. Không được che dấu lỗi lầm, bày điều mê hoặc để thu hút quần chúng. Phải sống ít muốn, biết đủ đối với bốn phẩm vật cúng dường.
Sống vừa đủ để hành đạo, không cất chứa tài sản và tiền bạc. (O)
Như Lai vừa nói tóm tắt về sự giữ giới. Giới luật đó là căn bản, là gốc rễ của giải thoát. Nhờ giữ giới trang nghiêm, thiền định và trí tuệ phát sanh, có thể tiêu diệt sự đau khổ. Thế nên các vị hãy giữ gìn giới luật một cách trọn vẹn. Người giữ giới thanh tịnh sẽ nuôi lớn pháp lành. Người thiếu mất giới thì không thể phát sinh công đức. (O)
Này các đệ tử, các vị phải chế ngự năm giác quan không để chúng dong ruổi theo trần cảnh, dục lạc. Người tu phải như chú mục đồng cầm roi chăn, không để trâu dẫm đạp lúa mạ của người. Một khi các vị buông lung năm giác quan, không những các vị không chế ngự được năm thứ dục lạc, mà các vị cũng không thể dừng được vòng cương toả của phóng túng, như con ngựa chứng nếu không dây cương, nó sẽ lao xuống hầm hố. Nạn khổ của giặc cướp chỉ có một đời, trong khi
nạn giặc giác quan làm chúng sanh đau khổ nhiều kiếp. Tai họa của nó vô cùng nguy hiểm. Các vị phải cẩn thận. (O)
Thế nên, người có trí cần phải chế ngự các giác quan chứ không phục tùng nó; giữ gìn chúng như là canh chừng giặc cướp, không để chúng hoành hành, thao túng.
Này các đệ tử, trong các giác quan của con người, ý là quan trọng nhất. Các vị phải thận trọng chế ngự tâm ý mình. Tâm ý rất đáng sợ, nguy hiểm còn hơn thú dữ, rắn độc, thậm chí nguy hại hơn cả nạn hỏa hoạn. Cũng như có người mải mê cầm giữ chén mật trên tay và quên đi hầm hố trên đường, sẽ bị vấp ngã. Cũng như voi say mà không có móc sắt; như khỉ vượn gặp được cây rừng tha hồ mà chuyền nhảy, muốn chế ngự chúng thì thật là khó. Vì vậy các vị siêng năng chế ngự tâm mình, để giữ gìn tất cả các pháp thiện. Khi tâm được chế ngự một chỗ thì không việc gì không thành. (O)
Này các đệ tử, khi thọ dụng phẩm vật cúng dường, các vị nên quan niệm như uống thuốc. Ngon không ham, dở không chê. Ăn uống chỉ để cho khỏi đói khát. Như ong hút mật trong hoa, chỉ lấy mùi vị, không làm tổn thương hương sắc. Người xuất gia cũng vậy: thọ dụng sự cúng dường để đủ sức khoẻ tu tập, không được ham cầu quá nhiều, làm tổn thất tín tâm của tín thí. Hãy như người trí biết lượng sức kéo và chịu đựng của trâu, không nên dùng trâu quá sức, đến nỗi kiệt lực. (O)
Này các đệ tử, ban ngày thì nỗ lực tu tập pháp lành, không để thời gian trôi qua uổng phí. Đầu hôm, cuối đêm cũng không luống bỏ. Giữa đêm tụng niệm, tu trì. Đừng vì chuyện ngủ nghỉ mà để cuộc đời trôi qua vô ích. Hãy tâm niệm rằng ngọn lửa vô thường đang đốt cháy thế gian, để tự tinh tấn độ mình, khắc phục sự lười biếng, ngủ nghỉ. Giặc phiền não luôn rình rập giết các vị, còn nguy hiểm hơn kẻ thù, làm sao các vị có thể mặc tình ngủ nghỉ mà không cảnh giác ! Phiền não
ngủ trong tâm người cũng như rắn độc nằm trong nhà, phải dùng móc sắt giới hạnh mà lôi kéo nó ra gấp. Rắn độc ra rồi ta mới an tâm ngủ nghỉ. Rắn độc chưa ra mà mải mê ngủ nghỉ thì thật là người không biết hổ thẹn. (O)
Này các đệ tử, sự hổ thẹn là trang sức đẹp nhất trong mọi trang sức. Sự hổ thẹn có khả năng chế ngự mọi thứ bất thiện và phi pháp của con người. Thế nên hãy sống với tâm niệm hổ thẹn, đừng bao giờ lãng quên đức tính ấy. Mất tâm hổ thẹn là mất tất cả công đức. Có hổ thẹn là có tất cả thiện pháp. Không hổ thẹn thì có khác chi loài cầm thú. (O)
Này các đệ tử, nếu có ai xúc phạm, thương tổn thân thể các vị, các vị nên kiềm chế tâm mình, đừng để lửa sân hận thiêu đốt. Lại phải giữ lời ăn, tiếng nói, đừng buông lời ác độc để trả đũa ai. Tâm sân hận trỗi dạy sẽ làm băng hoại đạo nghiệp, cháy hết công đức tu tập. Đức tánh của kham nhẫn thì giữ giới và khổ hạnh cũng không thể sánh bằng. Thực hành đức nhẫn mới xứng
danh là bậc Thượng Nhân có sức mạnh. Người nào chưa có thể chịu đựng sự nhục mạ một cách hoan hỷ, như uống cam lộ, thì chưa thể xứng danh là người vào đạo có trí. Sự sân hận sẽ thiêu hủy tất cả pháp lành, nó nguy hiểm hơn lửa dữ. Các vị phải canh phòng cẩn mật, đừng cho sân hận xâm nhập. Trong các loại giặc cướp công đức thì sân hận là nguy hiểm bậc nhất. Người thế gian sống thọ hưởng dục lạc, thiếu phương pháp chế ngự, nếu có sân hận còn có thể tha thứ được. Người xuất gia hành đạo loại bỏ mọi thứ vui của đời mà không loại bỏ được sân hận thì thật đáng trách, cũng giống như bầu trời quang đãng mà có sấm sét nổi lên là điều không thích hợp. (O)
Này các đệ tử, các vị hãy tự xoa đầu mình và ghi nhớ rằng: các vị đã bỏ tất cả các mỹ phẩm và trang sức của thế gian, khoác trên mình chiếc áo cà-sa hoại sắc, sống bằng cách khất thực. Khi nào tâm lý kiêu mạn, cao ngạo nổi lên thì lập tức chế ngự nó. Kiêu ngạo là tánh xấu mà thế nhân còn không nên có, huống chi là người xuất gia vì đạo giải thoát, sống bằng khất thực hay sao! (O)
Này các đệ tử, tâm lý dua nịnh trái ngược hoàn toàn với đạo giải thoát. Thế nên, các vị hãy huấn luyện tâm cho thật chất trực. Nên biết rằng: Dua nịnh là điều dối trá mà người xuất gia không nên có. Phải làm cho tâm ý đoan chánh, phát huy đức tánh trung trực. Đó là con đường vào đạo. (O)
Này các đệ tử, các vị nên biết rằng người nào tham muốn nhiều thì nhu cầu lợi dưỡng cũng nhiều, do vậy mà đau khổ càng tăng. Người ít muốn thì không ham cầu, không đắm nhiễm nên không có tệ hại ấy. Chỉ với lợi ích ấy thôi cũng đủ để các vị phải trau dồi, thực tập, huống là khi hạnh này còn có công năng phát triển các công đức ! Người ít muốn thì không lấy lòng người bằng cách dua nịnh, lòn cúi và cũng không bị các giác quan sai sử, thao túng. Hành giả ít muốn, tâm ý được thanh thản, không còn những ưu tư, phiền muộn, gặp việc thì đủ nghị lực để ứng phó, không
việc gì không làm được. Nói chung, sống hạnh ít muốn tất gần Niết-bàn. (O)
Này các đệ tử, nếu các vị muốn giải thoát mọi đau khổ thì nên thường xuyên tu tập quán biết đủ. Pháp biết đủ là cơ sở của sự an lạc, hạnh phúc và sung mãn. Người biết đủ dẫu nằm trên đất vẫn thấy an lạc. Người không biết đủ dẫu sống ở thiên đường vẫn chưa thấy toại nguyện. Không biết đủ tuy giàu mà rất nghèo. Biết đủ thì tuy nghèo nhưng rất giàu có. Người không biết đủ là kẻ nô lệ của năm thứ dục lạc thấp kém và còn là tấm bia đời đáng thương xót đối với hành giả biết đủ. (O)
Này các đệ tử, muốn đạt đạo tịch tịnh, vô vi, an lạc, các vị phải xa lìa những chốn huyên náo, sống một mình ở những nơi an nhàn, thanh vắng. Người ở chỗ yên tĩnh thì trời Đế-thích và chư Thiên đều kính trọng. Vì thế, các vị nên xa lìa hội chúng, sống đơn độc thư thái và cắt đứt gốc rễ đau khổ bằng tư duy trí tuệ. Người thích hội chúng thì bị hội chúng nhiễu loạn, như cây cổ thụ mà có nhiều chim tụ tập thì có thể bị hư cành. Thế gian trói buộc con người trong đau khổ cũng giống như con voi già bị sa lầy, khó mong thoát khỏi. Đó là hạnh siêu thoát, các vị cần ghi tâm. (O)
11- Này các đệ tử, nỗ lực tinh tấn thì không
việc gì khó khăn. Thế nên các vị phải siêng năng, tinh tấn như giọt nước thường nhỏ có thể xuyên thủng đá. Người tu hành mà biếng nhác thì khác nào như người cọ cây lấy lửa, cây chưa kịp nóng đã nghỉ, dầu tha thiết được lửa, lửa cũng không vì thế mà có được. Hãy siêng năng tinh tấn không dừng. (O)
12- Này các đệ tử, thực ra cầu cạnh thiện tri thức hay người trợ lực không bằng tự mình đề cao chánh niệm, tỉnh thức. Có chánh niệm thì giặc phiền não không thể xâm nhập được.
Thế nên các vị phải sống trong sự nhiếp niệm. Mất chánh niệm là đồng nghĩa với mất công đức. Có được chánh niệm bền vững thì dù sống trong
môi trường ngũ dục cũng chẳng hề gì, như người chiến sĩ vào trận có mặc áo giáp thì không còn sợ gì nữa. (O)
13- Này các đệ tử, nhiếp phục được tâm ý là làm cho tâm an trụ vào định. Tâm trụ thiền định thì sẽ thấu triệt được trạng thái sinh diệt, chuyển biến của thế giới. Các vị phải tinh tấn tu tập thiền định. Tâm định thì trạng thái chao động, tán loạn sẽ tiêu mất cũng như người biết cách giữ nước thì phải bảo vệ tốt đê điều. Cũng vậy, muốn có nước trí tuệ, các vị phải khéo tu tập thiền định, không để cho rỉ chảy. (O)
14- Này các đệ tử, có trí tuệ thì không có tham trước, luôn luôn tự tỉnh thức và tự dò xét, nhờ đó người ấy có khả năng giải thoát trong giáo pháp của Như Lai. Nếu không có trí tuệ thì không xứng danh là bậc xuất gia. Trí tuệ là chiếc thuyền vững chắc vượt qua biển sanh tử, là ngọn đèn sáng chói trong hắc ám vô minh, là dược liệu thần y của mọi bịnh tật và là lưỡi búa bén chặt đứt cây phiền não.
Vì thế, các vị cần trau dồi tuệ giác “văn, tư, tu” để tăng trưởng lợi ích. Người có trí tuệ soi chiếu thì dẫu là mắt thịt vẫn là người chánh kiến, thấy rõ bản chất mọi vật. (O)
Này các đệ tử, hý luận chỉ làm cho tâm
trí rối loạn. Người xuất gia mà sống hý luận thì không thể đạt được tuệ giác giải thoát. Vì thế các vị phải nhanh chóng từ bỏ vĩnh viễn tâm lý hý luận, vô ích. Diệt trừ các hý luận tạp loạn mới có thể đạt được an lạc tịch diệt. (O)
Này các đệ tử, hãy thường xuyên nhớ đến các công đức để từ bỏ tất cả mọi phóng dật, như là tránh xa bọn giặc cướp tài sản thánh. Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã tuyên nói chánh pháp lợi ích rốt ráo. Về phần mình, các vị hãy nỗ lực tinh tấn thường xuyên, đừng để cuộc đời trôi qua vô ích, sau này ăn năn, hối hận đã muộn. Như Lai như là vị lương y, rõ biết bịnh lý, cho toa thuốc hợp bịnh trạng từng người. Uống hay không uống không phải là lỗi của lương y. Như Lai lại cũng
như người chỉ đường, chỉ rõ đâu là con đường nên đi và hướng đến giải thoát. Biết rõ đường lành mà không chịu cất bước lên đường không phải là lỗi của vị đạo sư! (O)
“Này các đệ tử, đối với bốn chân lý thánh, nếu có chỗ nào chưa thấu đáo, thì nên thưa hỏi, Như Lai sẽ chỉ bày cho các con.” Thế Tôn khuyên nhắc ba lần như vậy, bốn chúng đều im lặng, không ai còn thắc mắc. (O)
Lúc ấy, tôn giả A-nậu-lâu-đà bạch Phật rằng:
– Bạch Thế Tôn, dù cho mặt trăng có thể trở nên nóng, mặt trời có trở nên lạnh, nhưng Bốn Chân Lý Thánh mà Như Lai đã dạy không thể nào thay đổi được. Khổ đế là thực trạng đau khổ của cuộc đời: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thù ghét mà phải gặp mặt là khổ, thương yêu mà phải chia lìa là khổ, chấp vào năm nhóm nhân thể là khổ. Diệt đế là trạng thái hết sạch mọi đau khổ và nguyên nhân đau khổ, là an lạc,
Niết-bàn. Đạo đế là con đường dẫn đến an lạc, là tám chánh đạo, là trung đạo, không có con đường nào khác. Bạch Thế Tôn, cả bốn chúng đều không còn thắc mắc gì về bốn chân lý cao thượng nầy nữa. (O)
Lúc bấy giờ trong chúng, hàng đệ tử hữu học phải đối diện sự kiện Đức Phật sẽ vô dư Niết- bàn, đều bi cảm, đau xót. Hàng đệ tử mới vào đạo nghe những lời dạy cuối cùng đều được hóa độ, như trong đêm tối nhờ có ánh sáng, nên thấy đường đi. Các hàng đệ tử vô học đã dứt sạch các phiền não, vượt ra khỏi sanh tử, vẫn không ngăn được sự ngậm ngùi: “Tại sao Đức Thế Tôn vô dư Niết-bàn quá sớm ! Lúc đó, Đức Phật vì thương bốn chúng nên dạy thêm rằng: (O)
– Này các đệ tử, chớ có thảm sầu, đau xót. Dẫu Như Lai có sống thêm ở đời một kiếp nữa, rồi cũng phải đến ngày Niết-bàn. Hội ngộ mà không chia tay; kết hợp mà không tan rã là điều không thể có được. (O)
Đối với Như Lai, kinh nghiệm và pháp thức lợi mình, lợi người, Như Lai đều đã tuyên bố. Thật chẳng có lợi ích gì, nếu Như Lai sống lâu nơi đời mà các vị không thực hành chánh pháp. Những chúng sanh đáng độ, Như Lai đã độ hết. Những chúng sanh chưa được độ, Như Lai cũng đã tạo nhân duyên để họ được hóa độ. Từ nay trở đi, đệ tử của Như Lai hãy noi theo truyền thống chánh pháp mà thực hành. Đó là cách làm cho pháp thân Như Lai thường còn, và mãi mãi bất diệt ở thế gian. Như Lai vô dư Niết-bàn hay không, việc đó không quan trọng. (O)
Này các đệ tử, các vị nên nhận thức rằng mọi vật thể, hiện tượng trên thế gian này đều chuyển biến, vô thường, có kết hợp thì phải có tan rã, chẳng có gì để quyến luyến, thương tâm. Cuộc đời là như thế, các vị phải nỗ lực tinh tấn để tự giải thoát. Dùng ánh sáng trí tuệ để tiêu diệt bóng tối si mê. Đời là một sự vận hành không kiên định. Như Lai vô dư Niết-bàn như bỏ đi một căn bệnh dữ.
Đó là năm nhóm nhân tính, mang tính tội lỗi, tạm gọi là thân, vì thế, nó phải chịu sự chi phối không thương tiếc của già, bệnh và chết. Bậc tuệ trí khi thoát khỏi nó có cảm tưởng như là dẹp xong được bọn cướp. Như vậy, chết không đáng để hoan hỷ, an lạc hay sao? (O)
Này các đệ tử, các vị phải tha thiết tìm kiếm con đường giải thoát. Toàn thể thế giới từ những vật thể đang vận động cho đến các vật thể không vận động cũng đều không thường còn, và không có thực thể, rồi phải đến lúc hoại diệt.
Thôi, các vị hãy yên lặng, đừng nói thêm lời nào nữa ! Đã đến lúc Như Lai vô dư Niết-bàn. Đó là những lời dạy cuối cùng của Như Lai. (O)
Nam-mô Phật Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni. (3 lần) (OOO)
KINH TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ CỦA HÀNG BỒ-TÁT
Là người đệ tử Phật, ngày đêm nên chí thành, nhớ nghĩ và tư duy, về tám điều giác ngộ, của các bậc Bồ-tát.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ NHẤT: Thế gian vốn vô thường, cõi nước rất mong manh, bốn đại lại khổ không, năm ấm là vô ngã, luôn sinh diệt biến đổi, giả dối không có chủ, tâm là nguồn việc ác, thân là rừng nghiệp tội, nếu quán sát như thế, dần hồi lìa tử sinh.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ HAI: Tham muốn nhiều là khổ, bao sinh tử nhọc nhằn, đều từ tham dục khởi, nếu ít muốn biết đủ, thân tâm được an lành.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ BA: Tâm nếu không thỏa mãn, chỉ lo việc tham cầu, sẽ tăng thêm tội ác, Bồ-tát hay quán xét, thường muốn ít biết đủ, vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy trí tuệ làm đầu.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ TƯ: Lười biếng phải sa đọa, nên thường hành tinh tấn, để phá trừ phiền não, nhiếp phục bốn chúng ma, xa lìa chốn tối tăm.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ NĂM: Ngu si phải sinh tử, Bồ-tát thường nên nhớ, luôn học rộng nghe nhiều, để tăng trưởng trí tuệ, nhằm thành tựu biện tài, rồi đem niềm vui lớn, giáo hóa cho mọi người.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ SÁU: Nghèo khổ hay oán giận, thường gieo nhiều tội lỗi, Bồ-tát luôn san sẻ, bình đẳng với mọi người, không nhớ đến quá khứ, không ghét bỏ một ai.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ BẢY: Tham muốn rất tai hại, tuy thân ở thế gian, nhưng không nhiễm dục lạc, thường nhớ nghĩ ba y, bình bát và pháp khí, chí nguyện người tu hành, luôn giữ đạo trong sạch, thực hiện hạnh thanh tịnh, từ bi với muôn loài.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ TÁM: Sinh tử luôn thiêu đốt, khổ não vô cùng tận, nên phát tâm
Bồ-đề, tu hành cầu giải thoát, độ hết thảy muôn loài, nguyện thay thế chúng sinh, gánh chịu nhiều đau khổ, khiến cho muôn loài vật, đều bình an hạnh phúc.
Tám điều nói trên đây, chư Phật và Bồ-tát, đã tự mình giác ngộ, nhờ tinh tấn hành trì, tu từ bi trí tuệ, nương theo thuyền Bát-nhã, mau đến bờ giải thoát, rồi giáo hóa thế gian, độ tất cả chúng sinh, đem tám điều giác ngộ, chỉ dạy cho mọi người, biết được sinh tử khổ, xa lìa năm dục lạc, tu theo Bát chính đạo. Này bốn chúng đệ tử, tư duy tám điều này, sẽ dễ dàng tỉnh giác, diệt được vô lượng tội, thẳng tiến quả Bồ-đề, mau thành tựu Phật pháp, xa lìa đường sinh tử, thường an nhiên thanh nhàn.
KỆ TÁN QUÁN ÂM
Cành dương liễu, nước tịnh nhiệm mầu. Rưới tắt muôn vàn, cảnh khổ đau.
Chư thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh.
Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn.
Cam lồ rưới khắp trần gian,
Não phiền dứt sạch, sen vàng nở hoa.(OOO)
MƯỜI HAI NGUYỆN LỚN
•
Một nguyền khi hành Bồ-tát đạo,
Danh hiệu tôi Tự Tại Quán Âm.
Sáu căn thanh tịnh viên thông,
Chỗ nào khốn khổ liền tìm đến nơi.
Hai nguyền không sợ gian nan,
Vớt người chìm đắm, biển sông lâu dài.
Ba nguyền ứng hiện Ta Bà,
U minh đau khổ mau mau giải trừ.
Bốn nguyền ma quỷ yêu tinh,
Hãy mau thức tỉnh hồi quy Phật-đà.
Năm nguyền dương liễu tịnh bình,
Cam lồ rưới mát, nhân thiên an lành.
Sáu nguyền bình đẳng xót thương,
Không còn phân biệt, thân sơ mọi loài.
Bảy nguyền dứt khổ ba đường,
Chúng sinh thoát nạn, không còn trầm luân. Tám nguyền cứu khổ tội tù,
Chúng sinh vui vẻ, an nhiên thanh nhàn.
Chín nguyền cứu khổ thế nhân,
Thảy đều thể nhập, Niết bàn vô sinh.
Mười nguyền hổ trợ Tây Phương,
Muốn cho tất cả, biết đường về Tây.
Mười một nguyền Di Đà thọ ký,
Cảnh Tây Phương tuổi thọ lâu dài,
Chúng sinh muốn sống an lành,
Niệm danh Bồ-tát, Tây Phương mau về. Mười hai nguyền tinh tấn tu hành,
Dù thân này lao khổ trăm bề,
Thành tâm nỗ lực không ngừng,
Mười hai nguyện lớn độ sinh đời đời. (OOO)
KỆ SÁM HỐI
Con đã gây ra bao lầm lỗi Khi nói khi làm khi tư duy Tham lam hờn giận và ngu si Nay con cúi đầu xin sám hối.
Một lòng con cầu Phật chứng tri Bắt đầu hôm nay nguyện làm mới Nguyện sống đêm ngày trong tỉnh giác Nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa.
Cúi xin các Phật Thế-tôn,
Nhủ lòng thương xót chúng sinh mê mờ. Hoặc tội ác tự tay tạo tác Hoặc xúi bảo kẻ khác từng làm Hoặc thấy việc ác không can Lại còn hoan hỷ sinh tâm đồng tình. Những tội ác tự mình trộm cướp Của chùa chiền bảo tháp chư tăng Tự tay mình lấy giả làm
Hoặc xui người lấy mừng vui trong lòng. Hoặc tự tay gây tạo tham tàn Làm mười điều ác lại coi thường Hoặc dùng thế lực ép oan,
Đều sa địa ngục A-tỳ đáng khinh.
Làm quỷ đói súc sinh đau khổ
Hoặc giam mình nẻo dữ không thôi
Làm loài hèn hạ nhất đời
Nếu được làm người làm người thấp kém.
Nay con nguyện thật thà sám hối
Biết bao điều tội lỗi xưa nay
Cúi xin chư Phật chứng minh
Xót thương cho nỗi khốn cùng của con.
Xin chư Phật rủ lòng thương xót
Nay con xin quỳ trước Phật-đà
Phát tâm thệ nguyện thật thà
Đời đời kiếp kiếp trồng gieo căn lành.
Xin phát nguyện làm lành lánh dữ.
Kể từ đây muôn kiếp không thôi.
Con nhất tâm nguyện sống đời lành.
Đem thân mạng nương nhờ Tam bảo.
Lên thuyền từ vượt qua biển khổ.
Cầm đuốc tuệ ra khỏi rừng mê.
Thân miệng ý luôn luôn trong sạch.
Đi đứng nằm ngồi trong tỉnh giác.
Lạy Phật tổ soi đường chỉ lối.
Hôm nay đây khẩn thiết thề nguyền.
Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm.
Không còn vương vấn chuyện xưa nay.
Nam mô cầu sám hối Bồ-tát.(OOO)
Chúng con tụng tam quy và vâng giữ năm điều đạo đức.
TỤNG TAM QUY Y
Chúng con nguyện suốt đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. (3 lần)
Quy y Phật, chúng con nguyện suốt đời tôn trọng kính thờ tu theo đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là vị thầy giác ngộ sáng suốt của chúng con. Quy y Phật rồi, chúng con không tu theo trời, thần, quỷ vật, nhưng vẫn tôn trọng bằng tình người trong cuộc sống.
Quy y Pháp, chúng con nguyện suốt đời tôn trọng, học hỏi và tu theo lời dạy của Phật. Quy y Pháp rồi, chúng con không tu theo ngoại đạo tà giáo, nhưng vẫn tôn trọng bằng tình người trong cuộc sống.
Quy y Tăng, chúng con nguyện suốt đời tôn trọng tu theo Tăng sĩ hướng dẫn đúng theo chánh pháp Như lai. Quy y Tăng rồi, chúng con không si mê làm thân với nhóm dữ bạn ác, nhưng vẫn tôn trọng bằng tình người trong cuộc sống.
TỤNG NGŨ GIỚI
Con nguyền từ bỏ sát sinh Tôn trọng sự sống, rải ban tâm lành. Thương yêu người vật môi sinh Cho đời hạnh phúc, muôn loài an vui.
Con nguyền từ bỏ trộm gian
Mánh mung cướp của, tham lam xin chừa.
Sống chân thật chẳng lọc lừa
Cho tròn nhân nghĩa, cho vừa nhân sinh.
Con nguyền từ bỏ ngoại tình
Một chồng một vợ, tấm lòng trinh nguyên.
Thương yêu tôn trọng cảm thông
Ngọt bùi chia sẻ, thủy chung trọn đời.
Con nguyền từ bỏ nói sai
Bớt lời chửi tục, móc moi hai đầu.
Nói như chánh pháp cao sâu
Im như bậc thánh, nhiệm mầu thấy nghe.
Con nguyền từ bỏ rượu chè
Say sưa nghiện ngập, thân mê trí mờ.
Để không bệnh hoạn thẫn thờ Để cho tâm trí lặng lờ sáng trong.
Từ nay con nguyện với lòng
Giữ gìn năm giới, quyết không phạm lầm.
Để cho con sống thanh cao Để đời an lạc, dạt dào tình thương.(OOO) Kinh hành niệm Quán Thế Âm Bồ-tát. (Hoặc ngồi tại chỗ niệm.)
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (108 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ-tát. (3 lần)
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát. (3 lần)
Nam mô Đại hạnh Phổ Hiền Bồ-tát. (3 lần) Nam mô Địa Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ-tát. (3 lần)
SÁM MƯỜI NGUYỆN
Một nguyền kính lễ Như Lai.
Hai nguyền xưng tán công dày Thế Tôn.
Ba nguyền tu phước cúng dường.
Bốn nguyền sám hối tiêu tan nghiệp trần.
Năm nguyền vui vẻ an lành.
Sáu nguyền thỉnh chuyển pháp luân độ người. Bảy nguyền thỉnh Phật ở đời.
Tám nguyền học Phật sáng ngời tâm linh. Chín nguyền hằng thuận chúng sinh.
Mười nguyền hồi hướng phước lành khắp nơi. (OOO)
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Sám hối công đức khôn tính kể Thắng phước vô biên đồng hướng về Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh Thảy đều thể nhập vô sinh nhẫn.
Nguyện tiêu ba chướng sạch phiền não Nguyện được trí tuệ thật sáng ngời Nguyện cả tội chướng thảy tiêu trừ Đời đời thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện đem công đức tu hành này
Chan rải mười phương khắp tất cả
Con và cha mẹ ông bà
Chúng sinh giác ngộ, cõi đời an vui.(OOO)
PHỤC NGUYỆN
Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo tác đại chứng minh.(O)
Nam mô Phật bổn sư Thích ca Mâu Ni tác đại chứng minh.(O)
Nam mô Bồ-tát Quán Thế Âm tác đại chứng minh.(O)
Nam mô Phật hoàng Trần Nhân Tông tác đại chứng minh.(O)
Nam mô chư liệt vị tiền nhân ông bà tổ tiên tác đại chứng minh. (O)
Nam mô chư vị tổ sư Ấn Độ Trung Hoa Việt Nam tác đại chứng minh. (O)
Cửa thiền thường nghiêm tịnh Toàn chúng mãi thuận hòa Phật huệ chiếu sáng ngời Mưa pháp hằng nhuần gội Phật tử lòng tin sâu Ruộng phước càng tăng trưởng Chúng sinh sống an lạc Vui hưởng cảnh thái bình Nơi nơi dứt đao binh Mỗi mỗi đều thành Phật.
Nam mô Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni.(O)
ĐẢNH LỄ BA NGÔI BÁU
Con xin nương tựa Phật
Bậc phước trí vẹn toàn
Cầu tất cả chúng sinh
Giác ngộ, phát tâm lành. (một lạy)
Con xin nương tựa Pháp
Nguồn tuệ giác Từ bi
Cầu tất cả chúng sinh
Hiểu đạo, tỏ nguồn tâm. (một lạy)
Con xin nương tựa Tăng Đoàn thể sống an vui Cầu tất cả chúng sinh
Hòa hợp, thương mến nhau. (một lạy)(OOO) HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức tu hành này Chan rải mười phương khắp tất cả Con và cha mẹ ông bà Chúng sinh giác ngộ, cõi đời an vui.(OOO)
BÀI 5:
NGHI THỨC SÁM HỐI SÁU CĂN
NGUYỆN HƯƠNG
Trầm thuỷ, rừng thiền hương sực nức,
Chiên đàn vườn tuệ đã vun trồng.
Đao giới vót thành hình non thẳm,
Nguyện đốt lò tâm mãi cúng dâng.
Nam-mô Bồ-tát Hương cúng dường.(OOO)
TÁN PHÁP
Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn,
Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp.
Nay con nghe thấy xin trì tụng,
Nguyện hiểu chân kinh nghĩa nhiệm mầu.
Qui kính Phật, Bồ-Tát trên hội Bát Nhã.(3 lần)
O
TÁN PHẬT
Đại từ, đại bi thương chúng sinh,
Đại hỷ, đại xả cứu muôn loài.
Tướng đẹp sáng ngời dùng trang nghiêm, Chúng con chí tâm thành đảnh lễ.(O)
LỄ PHẬT TỔ
– Chí tâm đảnh lễ: Quá khứ Phật Tỳ Bà Thi.
– Chí tâm đảnh lễ: Hiện tại Phật Thích Ca Mâu Ni.
– Chí tâm đảnh lễ: Vị lai Phật Di Lặc Tôn.
– Chí tâm đảnh lễ: Tổ sư Ca Diếp.
– Chí tâm đảnh lễ: Tổ sư A Nan.
– Chí tâm đảnh lễ: Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma.
– Chí tâm đảnh lễ: Tổ sư Huệ Khả.
– Chí tâm đảnh lễ: Tổ sư Huệ Năng.
– Chí tâm đảnh lễ: Tổ sư Trúc Lâm Đại Đầu
Đà.
– Chí tâm đảnh lễ: Tổ sư Pháp Loa.
– Chí tâm đảnh lễ: Tổ sư Huyền Quang.
– Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư vị Tổ sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam. vô chuông mõ
một tiếng chuông ba tiếng mõ một chuông một mõ một chuông một mõ một chuông năm tiếng mõ
SÁM HỐI SÁU CĂN
Chúng con từ vô thủy kiếp đến nay,
Bỏ mất bản tâm không biết chánh đạo.
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm;
Không sám lỗi trước khó tránh lỗi sau.(O)
1- Nghiệp căn Mắt là:
Nhân ác xem kỹ, nghiệp thiện coi khinh,
Lầm nhận hoa giả, quên ngắm trăng thật.
Yêu ghét nổi dậy, đẹp xấu tranh dành,
Chợp mắt dối sanh, mờ đường chánh kiến. Trắng qua xanh lại, tía phải vàng sai,
Nhìn lệch các thứ, nào khác kẻ mù.
Gặp người sắc đẹp, liếc trộm nhìn ngang, Lòa mắt chưa sanh, bản lai diện mục.
Thấy ai giàu có, giương mắt mãi nhìn,
Gặp kẻ bần cùng, lờ đi chẳng đoái.
Người dưng chết chóc, nước mắt ráo khô, Thân quyến qua đời, đầm đìa lệ máu.
Hoặc đến Tam bảo, hoặc vào chùa chiền, Gần tượng, thấy kinh mắt không thèm ngó. Phòng Tăng, điện Phật gặp gở gái trai,
Mắt liếc mày đưa, đam mê sắc dục.
Không ngại Hộ pháp, chẳng sợ Long thần, Trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi. Những tội như thế, vô lượng vô biên,
Đều từ mắt sanh, phải sa địa ngục.
Trải hằng sa kiếp, mới được làm người,
Dù được làm người, lại bị mù chột.
2- Nghiệp căn Tai là:
Ghét nghe chánh pháp, thích lắng lời tà,
Mê mất gốc chơn, đuổi theo ngoại vọng.
Sáo đàn inh ỏi, Bảo khúc Long ngâm,
Văng vẳng mõ chuông,coi như ếch nhái.
Câu ví bài vè, bỗng nhiên để dạ,
Lời kinh câu kệ, không chút lắng tai.
Thoảng nghe khen hão, khấp khởi mong cầu, Biết rõ lời lành, đâu từng ưng nhận.
Vài ba bạn rượu, năm bảy khách chơi,
Tán ngắn bàn dài, châu đầu nghe thích.
Hoặc gặp thầy bạn, dạy bảo đinh ninh, Những điều hiếu trung, che tai bỏ mặc.
Hoặc nghe tiếng xuyến, bỗng nảy lòng dâm, Nghe nửa câu kinh, liền như tai ngựa.
Những tội như thế, vô lượng vô biên,
Đầy ắp bụi trần, kể sao cho xiết.
Sau khi mạng chung, rơi ba đường ác Hết nghiệp thọ sanh, lại làm người điếc.
3- Nghiệp căn Mũi là:
Thường tham mùi lạ, trăm thứ ngạt ngào, Chẳng thích chơn hương, năm phần thanh tịnh. Lan xông xạ ướp, chỉ thích tìm tòi,
Giới định huân hương, chưa từng để mũi. Trầm đàn thiêu đốt, đặt trước Phật đài,
Nghển cổ hít hơi, trộm hương phẩy khói.
Theo dõi hương trần, Long thần chẳng nể,
Chỉ thích mùi xằng, trọn không chán mỏi.
Mặt đào má hạnh, lôi kéo chẳng lìa,
Cây giác hoa tâm, xây đi không đoái.
Hoặc ra phố chợ, hoặc vào bếp sau,
Thấy bẩn thèm ăn, ưa nhơ kiếm nuốt.
Chẳng ngại tanh hôi, không kiên hành tỏi,
Mê mãi không thôi, như lợn nằm ổ.
Hoặc chảy nước mũi, hoặc hỉ đàm vàng,
Bôi cột quẹt thềm, làm nhơ đất sạch.
Hoặc say nằm ngủ, điện Phật phòng Tăng, Hai mũi thở hơi, xông kinh nhơ tượng. Ngửi sen thành trộm, nghe mùi thành dâm, Không biết không hay, đều do nghiệp mũi, Những tội như thế, vô lượng vô biên,
Sau khi mạng chung, đọa ba đường khổ. Trải ngàn muôn kiếp, mới được làm người, Dù được làm người, quả báo bệnh mũi
4- Nghiệp căn Lưỡi là:
Tham đủ mọi thứ, thích xét ngon dở,
Nếm hết các thứ, rõ biết béo gầy.
Sát hại sinh vật, nuôi dưỡng thân mình, Quay rán cá chim, nấu hầm cầm thú.
Thịt tanh béo miệng, hành tỏi ruột xông. Ăn rồi đòi nữa, nào thấy no lâu.
Hoặc đến đàn chay, cầu thần lễ Phật,
Cố cam bụng đói, đợi lúc việc xong.
Sáng sớm ăn chay, cơm ít nước nhiều,
Giống hệt người đau, gắng nuốt thuốc cháo. Mắt đầy mỡ thịt, cười nói hân hoan,
Rượu chuốc cơm mời, nóng thay nguội đổi. Bày tiệc đãi khách, cưới gả cho con,
Giết hại chúng sanh, vì ba tấc lưỡi.
Nói dối bày điều, thêu dệt bịa thêm,
Hai lưỡi bỗng sanh, ác khẩu dấy khởi.
Chửi mắng Tam bảo, nguyền rủa mẹ cha, Khinh khi Hiền thánh, lừa dối mọi người.
Chê bai người khác, che dấu lỗi mình,
Bàn luận cổ kim, khen chê này nọ.
Khoe khoang giàu có, lăng nhục người nghèo, Xua đuổi Tăng Ni, chửi mắng tôi tớ.
Lời dèm thuốc độc, nói khéo tiếng đàn,
Tô vẽ điều sai, nói không thành có.
Oán hờn nóng lạnh, phỉ nhổ non sông,
Tán dóc Tăng phòng, ba hoa điện Phật.
Những tội như thế, vô lượng vô biên,
Ví như cát bụi, đếm không thể cùng.
Sau khi mạng chung, vào ngục Bạt thiệt Cày sắt kéo dài, nước đồng rót mãi.
Quả báo hết rồi, muôn kiếp mới sanh,
Dù được làm người, lại bị câm bặt.
5- Nghiệp căn Thân là:
Tinh cha huyết mẹ, chung hợp nên hình, Năm tạng trăm hài, cùng nhau kết hợp. Chấp cho là thật, quên mất pháp thân, Sinh dâm, sát, trộm, bèn thành ba nghiệp: a- Nghiệp Sát Sinh là:
Luôn làm bạo ngược, chẳng khởi nhân từ, Giết hại bốn loài, đâu biết một thể.
Lầm hại cố giết, tự làm dạy người,
Hoặc tìm thầy bùa, đem về ếm đối.
Hoặc làm thuốc độc, để hại sanh linh,
Chỉ cốt hại người, không hề thương vật.
Hoặc đốt núi rừng, lấp cạn khe suối,
Buông chài bủa lưới, xuýt chó thả chim, Thấy nghe tùy hỷ, niệm dấy tưởng làm,
Cử động vận hành, đều là tội lỗi. b- Nghiệp Trộm Cắp là:
Thấy tài bảo người, thầm khởi tâm tà,
Phá khóa cạy then, sờ bao mò túi.
Thấy của thường trụ, lòng dấy khởi tham, Trộm của nhà chùa, không sợ Thần giận. Không những vàng ngọc, mới mắc tội to, Ngọn cỏ cây kim, đều thành nghiệp trộm. c- Nghiệp Tà Dâm là:
Lòng mê nhan sắc, mắt đắm phấn son, Chẳng đoái liêm trinh, riêng sanh lòng dục. Hoặc nơi đất Phật, chánh điện phòng Tăng, Cư sĩ gái trai, đụng chạm đùa giỡn.
Tung hoa ném quả, đạp cẳng kề vai,
Khoét ngạch trèo tường, đều là dâm nghiệp.
Những tội như thế, vô lượng vô biên, Đến lúc mạng chung, đều vào địa ngục. Gái nằm giường sắt, trai ôm cột đồng, Muôn kiếp tái sanh, lại chịu tội báo.
6- Nghiệp căn Ý là:
Nghĩ vơ, nghĩ vẩn, không lúc nào dừng, Mắc mưu tình trần, kẹt tâm chấp tướng. Như tầm kéo kén, càng buộc càng bền, Như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt.
Hôn mê chẳng tỉnh, điên đảo dối sinh Não loạn tâm thần, đều do ba độc. a- Tội keo tham là:
Âm mưu ghen ghét, keo cú vét vơ, Mười vốn ngàn lời, còn cho chưa đủ. Của chứa tợ sông, lòng như hũ chảy, Rót vào lại hết, nên nói chưa đầy.
Tiền mục lúa hư, không cứu đói rét,
Lụa là chất đống, nào có giúp ai,
Được người mấy trăm, chưa cho là nhiều, Mất mình một đồng, tưởng như hao lớn. Trên từ châu báu, dưới đến tơ gai,
Kho đụn chất đầy, chưa từng bố thí.
Bao nhiêu sự việc, ngày tính đêm lo,
Khổ tứ lao thần, đều từ tham nghiệp. b- Tội nóng giận là:
Do tham làm gốc, lửa giận tự thiêu,
Quắc mắt quát to, tiêu tan hòa khí.
Không riêng người tục, cả đến thầy tu,
Kinh luận tranh giành, cùng nhau công kích. Chê cả sư trưởng, nhiếc đến mẹ cha,
Cỏ nhẫn héo vàng, lửa độc rực cháy.
Buông lời hại vật, cất tiếng hại người, Không nhớ từ bi, chẳng theo luật cấm.
Bàn thiền tợ Thánh, trước cảnh như ngu, Dầu ở cửa Không, chưa thành vô ngã.
Như cây sanh lửa, lửa cháy đốt cây,
Những tội trên đây, đều do nghiệp giận. c- Tội ngu si là:
Căn tánh dần độn, ý thức tối tăm,
Chẳng hiểu tôn ty, không phân thiện ác.
Chặt cây hại mạng, giết gấu gãy tay,
Mắng Phật chuốc ương, phun Trời ướt mặt. Quên ơn quên đức, bội nghĩa bội nhân,
Không tỉnh không xét, đều do si nghiệp. Những tội như thế, rất nặng rất sâu,
Đến lúc mạng chung, rơi vào địa ngục.
Trải trăm ngàn kiếp, mới được thọ sanh,
Dù được thọ sanh, lại mắc ngu báo.
Nếu không sám hối, đâu được tiêu trừ,
Nay trước Phật đài, thành tâm sám hối .(OOO)
KỆ SÁM HỐI
Con đã gây ra bao lầm lỗi Khi nói khi làm khi tư duy Tham lam hờn giận và ngu si Nay con cúi đầu xin sám hối.
Một lòng con cầu Phật chứng tri Bắt đầu hôm nay nguyện làm mới Nguyện sống đêm ngày trong tỉnh giác Nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa.
Cúi xin các Phật Thế-tôn,
Nhủ lòng thương xót chúng sinh mê mờ. Hoặc tội ác tự tay tạo tác Hoặc xúi bảo kẻ khác từng làm Hoặc thấy việc ác không can Lại còn hoan hỷ sinh tâm đồng tình. Những tội ác tự mình trộm cướp Của chùa chiền bảo tháp chư tăng Tự tay mình lấy giả làm
Hoặc xui người lấy mừng vui trong lòng. Hoặc tự tay gây tạo tham tàn Làm mười điều ác lại coi thường Hoặc dùng thế lực ép oan,
Đều sa địa ngục A-tỳ đáng khinh.
Làm quỷ đói súc sinh đau khổ
Hoặc giam mình nẻo dữ không thôi
Làm loài hèn hạ nhất đời
Nếu được làm người làm người thấp kém.
Nay con nguyện thật thà sám hối
Biết bao điều tội lỗi xưa nay
Cúi xin chư Phật chứng minh
Xót thương cho nỗi khốn cùng của con.
Xin chư Phật rủ lòng thương xót
Nay con xin quỳ trước Phật đà
Phát tâm thệ nguyện thật thà
Đời đời kiếp kiếp trồng gieo căn lành.
Xin phát nguyện làm lành lánh dữ.
Kể từ đây muôn kiếp không thôi.
Con nhất tâm nguyện sống đời lành.
Đem thân mạng nương nhờ Tam Bảo.
Lên thuyền từ vượt qua biển khổ.
Cầm đuốc tuệ ra khỏi rừng mê.
Thân miệng ý luôn luôn trong sạch.
Đi đứng nằm ngồi trong tỉnh giác.
Lạy Phật tổ soi đường chỉ lối.
Hôm nay đây khẩn thiết thề nguyền.
Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm.
Không còn vương vấn chuyện xưa nay.
Nam mô cầu sám hối Bồ tát ma ha tát.(OOO) CHÚNG CON TỤNG TAM QUY VÀ VÂNG GIỮ NĂM ĐIỀU ĐẠO ĐỨC.
TỤNG TAM QUY Y
Chúng con nguyện suốt đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. (3 lần)
Quy y Phật, chúng con nguyện suốt đời tôn trọng kính thờ tu theo đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là vị thầy giác ngộ sáng suốt của chúng con. Quy y Phật rồi, chúng con không tu theo trời, thần, quỷ vật, nhưng vẫn tôn trọng bằng tình người trong cuộc sống.(O)
Quy y Pháp, chúng con nguyện suốt đời tôn trọng, học hỏi và tu theo lời dạy của Phật. Quy y Pháp rồi, chúng con không tu theo ngoại đạo tà giáo, nhưng vẫn tôn trọng bằng tình người trong cuộc sống.(O)
Quy y Tăng, chúng con nguyện suốt đời tôn trọng tu theo Tăng sĩ hướng dẫn đúng theo chánh pháp Như lai. Quy y Tăng rồi, chúng con không si mê làm thân với nhóm dữ bạn ác, nhưng vẫn tôn trọng bằng tình người trong cuộc sống.(OOO)
TỤNG NGŨ GIỚI
Con nguyền từ bỏ sát sinh Tôn trọng sự sống, rải ban tâm lành. Thương yêu người vật môi sinh Cho đời hạnh phúc, muôn loài an vui.
Con nguyền từ bỏ trộm gian
Mánh mung cướp của, tham lam xin chừa.
Sống chân thật chẳng lọc lừa
Cho tròn nhân nghĩa, cho vừa nhân sinh.
Con nguyền từ bỏ ngoại tình
Một chồng một vợ, tấm lòng trinh nguyên.
Thương yêu tôn trọng cảm thông
Ngọt bùi chia sẻ, thủy chung trọn đời.
Con nguyền từ bỏ nói sai
Bớt lời chửi tục, móc moi hai đầu.
Nói như chánh pháp cao sâu
Im như bậc thánh, nhiệm mầu thấy nghe.
Con nguyền từ bỏ rượu chè
Say sưa nghiện ngập, thân mê trí mờ.
Để không bệnh hoạn thẫn thờ Để cho tâm trí lặng lờ sáng trong.
Từ nay con nguyện với lòng
Giữ gìn năm giới, quyết không phạm lầm.
Để cho con sống thanh cao
Để đời an lạc, dạt dào tình thương. (OOO)
ĐI KINH HÀNH NIỆM PHẬT BỒ-TÁT
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (108
lần) O
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (18 lần) O Nam mô Đại Thế Chí Bồ-tát. (3 lần) O
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát. (3 lần) O
Nam mô Đại hạnh Phổ Hiền Bồ-tát. (3 lần) O Nam mô Địa Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần) O Nam mô Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ-tát. (3 lần) (OOO)
SÁM MƯỜI NGUYỆN
Một nguyền kính lễ Như Lai.
Hai nguyền xưng tán công dày Thế Tôn.
Ba nguyền tu phước cúng dường.
Bốn nguyền sám hối nghiệp vương tội trần. Năm nguyền vui vẻ an lành.
Sáu nguyền thỉnh chuyển pháp luân độ người. Bảy nguyền thỉnh Phật ở đời.
Tám nguyền học Phật sáng ngời tâm linh. Chín nguyền hằng thuận chúng sinh.
Mười nguyền hồi hướng phước lành khắp nơi.
(OOO)
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Tụng kinh công đức khôn tính kể Thắng phước vô biên đồng hướng về Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh Thảy đều thể nhập vô sinh nhẫn.
Nguyện tiêu ba chướng sạch phiền não Nguyện được trí tuệ thật sáng ngời Nguyện cả tội chướng thảy tiêu trừ Đời đời thường hành Bồ-tát đạo.
Nguyện đem công đức tu hành này Chan rải mười phương khắp tất cả Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Phật đạo. (OOO)
CHÍ TÂM PHÁT NGUYỀN
Một nguyền nguồn linh thường trong lặng. Hai nguyền tạng thức dứt lăng xăng.
Ba nguyền khối nghi đều tan nát.
Bốn nguyền trăng định mãi tròn đầy.
Năm nguyền pháp trần không khởi diệt.
Sáu nguyền lưới ái lìa buộc ràng.
Bảy nguyền suy nghĩ hành Thập địa.
Tám nguyền nghe suốt bỏ tam thiên.
Chín nguyền tâm vượn thôi nhảy nhót.
Mười nguyền ý ngựa dứt cương yên.
Mười một nguyền mở lòng nghe Phật dạy. Mười hai nguyền mến thích Tổ sư Thiền.
(OOO)
CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG
Chúng con hồi tâm về Thánh chúng,
Ân cần đầu cúi lễ Từ tôn.
Thềm thang Thập địa nguyện sớm lên,
Chơn tâm Bồ đề không thối chuyển. (O)
PHỤC NGUYỆN
Cửa Thiền thường nghiêm tịnh,
Toàn chúng mãi thuận hòa.
Phật tuệ chiếu sáng ngời,
Mưa pháp hằng nhuần gội.
Phật tử lòng tin sâu,
Ruộng phước càng tăng trưởng.
Chúng sanh sống an lạc,
Vui hưởng cảnh thái bình.
Nơi nơi dứt đao binh,
Mỗi mỗi đều thành Phật. (O)
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.(OOO)
ĐẢNH LỄ BA NGÔI BÁU
Con xin nương tựa Phật Bậc phước trí vẹn toàn Cầu tất cả chúng sinh
Giác ngộ, phát tâm lành. (một lạy) O
Con xin nương tựa Pháp Nguồn tuệ giác Từ bi Cầu tất cả chúng sinh
Hiểu đạo, tỏ nguồn tâm. (một lạy) O
Con xin nương tựa Tăng Đoàn thể sống an vui Cầu tất cả chúng sinh
Hòa hợp, thương mến nhau. (một lạy) O
HỒI HƯỚNG
(OOO)
Nguyện đem công đức này Hướng về khắp tất cả Đệ tử và chúng sinh Đều trọn thành Phật đạo.